Có nên thêm thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú trong khoản 2, 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự

Cập nhật lúc: 00:39 06/04/2022

Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự, sau khi Hội đồng xét xử tuyên án có thể ra một trong các quyết định: Quyết định bắt tạm giam bị cáo, quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án, quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú tuy nhiên thời hạn tạm giam và thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú là khác nhau:

Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tại khoản 1 quy định: Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà xử phạt tù nhưng xét thấy cần tiếp tục tạm giam để bảo đảm thi hành án thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo…..

Tại khoản 2 quy định…. Hội đồng xét xử có thể ra quyết định bắt bị cáo ngay tại phiên tòa nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội.

Tại khoản 3 quy định thời hạn tạm giam bị cáo quy định tại khoản 1, 2 Điều này là 45 ngày kể từ ngày tuyên án.

Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tại khoản 4 quy định…. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.

Với quy định tại khoản 4 Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự có thể có nhiều cách hiểu khác nhau:

Thứ nhất: Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù là thời điểm bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật tức đã hết 15 ngày kháng cáo của bị cáo theo khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, hết thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày theo khoản 1 Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự, trong thời han 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án hình sự theo khoản 1 Điều 22 Luật thi hành án hình sự như vậy: Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú trong trường hợp này tối đa ‘thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù” là 37 ngày.

Thứ hai: Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù là thời điểm bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật tức có kháng cáo của bị cáo theo khoản 1 Điều 333 nhưng bị cáo rút đơn kháng cáo, có kháng cáo quá hạn nhưng không chấp nhận kháng cáo quá hạn Điều 335 Bộ luật tố tụng hình sự, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp rút kháng nghị theo khoản 1 Điều 342, khoản 1 Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, trong thời han 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án hình sự theo khoản 1 Điều 22 Luật thi hành án hình sự như vậy: Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú trong trường hợp này ‘thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù” không xác định được thời điểm bị cáo phải nộp đơn kháng cáo quá hạn, bị cáo rút kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng nghị nên không xác định được số ngày người đó đi chấp hành án phạt tù do đó ‘thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù” có thể dưới 45 ngày, bằng hoặc trên 45 ngày.

Theo cách hiểu thứ hai thì kể từ ngày Hội đồng xét xử sơ thầm ra quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú thì quyết định đó có hiệu lực đến trước khi phiên tòa phúc thẩm được mở do đó cấp phúc thẩm không phải ra quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc  biện pháp ngăn trặn khác khi không cần thiết kể từ thời điểm nhận hồ sơ của cấp sơ thẩm chuyển đến. Do đó có sự không thống nhất giữa quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử là 45 ngày kể từ ngày tuyên án theo khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, trong Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự cũng không có quy định nào về thời hạn của quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú.

Từ phân tích trên có quan điểm cho rằng cần quy định thêm vào khoản 2 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự nội dung “Hội đồng xét xử có thể ra Quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú…” và thêm vào khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự tình tiết “ Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú quy định tai khoản……2 Đều này là 45 ngày kể tứ ngày tuyên án”

Trên đây là quan điểm của tác giả về thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù. Rất mong được sự trao đổi của bạn đọc./.

Lưu Quốc Chinh