Hiểu thế nào là không rõ địa chỉ của bị đơn sau khi toà thụ lý vụ án?
Cập nhật lúc: 07:45 28/10/2025
Trong quá trình giải quyết vụ án, không ít vụ án nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ nơi cư trú hiện tại của bị đơn dẫn đến việc khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án.
Như vậy, nếu đặt trường hợp tại thời điểm giao kết Hợp đồng thì bị đơn có mặt đầy đủ, hai bên đã thực hiện đầy đủ theo nội dung Hợp đồng. Sau đó, nguyên đơn phát hiện Hợp đồng có đối tượng không thực hiện được nên mới khởi kiện tại Toà. Khi đó thì bị đơn đã không còn cư trú tại địa phương, như vậy thì nguyên đơn có đủ điều kiện khởi kiện không?
Tác giả đưa ra tình huống sự việc cụ thể như sau: A và B ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (Giấy viết tay) tại thời điểm năm 2022, hai bên đã nhận nhà, giao tiền đầy đủ, bên A đã trực tiếp sử dụng nhà đất đã mua của B. Sau đó, đến năm 2024, A kiện B yêu cầu huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giấy tay vì cho rằng tại thời điểm giao kết đã vi phạm điều cấm của luật Tại thời điểm ký kết Hợp đồng. B thường trú ở phường X, tỉnh Y, A nhận nhà đất, B nhận tiền đầy đủ. Sau đó, theo kết quả xác minh của Toà án tại công an địa phương nơi cư trú của B thì xác định B đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài nhưng không biết địa chỉ cụ thể; gia đình B cũng không biết địa chỉ chính xác nơi B ở, A cũng không biết. Như vậy, trường hợp này Toà án án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung hay đình chỉ giải quyết vụ án do bị đơn không có địa chỉ cụ thể?
Về tình huống này thì tác giả xin trao đổi như sau:
Căn cứ khoản 4 điều 189 BLTTDS thì đơn kiện phải có địa chỉ nơi cư trú, làm việc của bị đơn. Trường hợp không rõ nơi cư trú thì ghì nơi cư trú cuối cùng của bị đơn. Tuy nhiên, tại điểm c, khoản 2, Điều 6 của Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP TAND hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án. Như vậy, trường hợp không thuộc điểm a, b khoản 2 Điều này mà Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.
Như vậy, theo tác giả thì trong tình huống cụ thể này không xác định bị đơn B cố tình giấu địa chỉ quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 6 của nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP-TANDTC. Do đó, nếu nguyên đơn A không cung cấp được địa chỉ mới, Toà án xác minh cũng không xác định được địa chỉ mới của bị đơn thì đình chỉ giải quyết vụ án. Trường hợp vụ án bị đình chỉ giải quyết theo hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này thì theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện có quyền khởi kiện lại vụ án đó khi đủ điều kiện.
Tác giả xin nêu ý kiến trao đổi và mong muốn nhận được sự góp ý, trao đổi từ các độc giả!
Các tin khác
- Phân tích đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính.
- “Hạn chế, khó khăn, vướng mắc và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc thu thập chứng cứ”.
- Những bất cập trong hoạt động định giá tài sản khi giải quyết vụ án dân sự – Giải pháp khắc phục và kiến nghị
- Trao đổi nghiệp vụ: Vướng mắc trong việc xác định lãi chậm trả trong hợp đồng tín dụng và giải pháp Pháp lý
- Bàn về thời hạn ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong vụ án Dân sự