Trao đổi nghiệp vụ: Vướng mắc trong việc xác định lãi chậm trả trong hợp đồng tín dụng và giải pháp Pháp lý
Cập nhật lúc: 08:25 30/09/2025
Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng (TCTD) và khách hàng, một vấn đề thường phát sinh tranh chấp là việc xác định khoản lãi chậm trả trong trường hợp khách hàng vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Vấn đề này tuy có cơ sở pháp lý nhưng vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau giữa các cơ quan tố tụng và TCTD, dẫn đến cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau giữa Toà án các cấp.
Hợp đồng cho vay tài sản là tiền giữa tổ chức tín dụng (TCTD) với khách hàng được gọi là hợp đồng tín dụng. Khi giao kết hợp đồng tín dụng, TCTD và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng.
Việc xác định lãi suất trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng được quy định tại khoản 2 Điều 100 Luật các Tổ chức tín dụng 2024 sửa đổi, bổ sung cụm từ “Theo quy định của pháp luật” tại Luật các Tổ chức tín dụng 2010 thành “Theo quy định của pháp luật về các tổ chức tín dụng”. Theo đó, lãi suất trong hoạt động của TCTD và khách hàng thỏa thuận phù hợp với cơ chế thỏa thuận theo quy định của pháp luật về các TCTD.
Theo quy định nêu trên, lãi suất do TCTD và khách hàng thỏa thuận với nhau trong hợp đồng tín dụng, thỏa thuận bao gồm lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi chậm trả. Cụ thể, khách hàng có nghĩa vụ thanh toán lãi và/hoặc gốc khoản vay đúng hạn cho đến khi hết thời hạn cho vay, khi đến hạn thanh toán mà khách hàng không trả hoặc trả không đầy đủ nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay theo thỏa thuận, thì khách hàng phải trả thêm lãi chậm trả của toàn bộ số tiền dư nợ.
Các tổ chức tín dụng chỉ khởi kiện khách hàng vay vốn tại Tòa án nhân dân (TAND) cấp có thẩm quyền khi khách hàng đã vi phạm nội dung đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp Toà án không chấp nhận việc tính lãi, lãi suất đã thỏa thuận theo hợp đồng tín dụng dẫn đến chưa đảm bảo quyền lợi của TCTD trong khi TCTD đã giải ngân, cho vay, khách hàng đã sử dụng nguồn vốn đó.
Theo quy định khoản 1 Điều 25 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 (và các văn bản sửa đổi bổ sung) của Ngân hàng nhà nước quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng: “1. Tổ chức tín dụng và khách hàng được thỏa thuận về việc phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật đối với trường hợp tổ chức tín dụng hoặc khách hàng không thực hiện đúng nội dung trong thỏa thuận cho vay, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 13 Thông tư này.”
Khoản 4 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN nêu trên quy định: “4. Khi đến hạn thanh toán mà khách hàng không trả hoặc trả không đầy đủ nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay theo thỏa thuận, thì tùy từng trường hợp khách hàng phải trả lãi tiền vay như sau: a. Lãi trên nợ gốc theo lãi suất cho vay đã thỏa thuận tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; b. Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả; c. Trường hợp khoản nợ vay bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả lãi trên dư nợ gốc bị quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất áp dụng không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn.”
Tuy nhiên, hiện nay không có hướng dẫn chi tiết về nội dung này, nên không thể xem việc tính lãi chậm trả đối với phần dư nợ lãi quá hạn phát sinh từ dư nợ gốc quá hạn. TCTD hiểu rằng trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi trên nợ gốc (không phân biệt tiền lãi trên dư nợ gốc trong hạn hay tiền lãi trên dư nợ gốc quá hạn) thì đều áp dụng trả lãi chậm trả theo điểm b, c khoản 4 Điều 13 Thông tư 39 sẽ áp dụng để xử lý trong trường hợp không trả đúng hạn phần dư nợ gốc.
Điều 12 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thì: “1. Hợp đồng vay tài sản có thỏa thuận xử lý đối với hành vi không trả nợ đúng hạn của bên vay thì Tòa án xem xét, quyết định theo nguyên tắc chỉ xử lý một lần đối với mỗi hành vi không trả nợ đúng hạn”
Trên thực tế, trong Hợp đồng tín dụng giữa TCTD và Khách hàng, phần lãi chậm trả đa số được thỏa thuận “10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả”.
Một số quan điểm của một số Thẩm phán về phần lãi quá hạn phát sinh từ dư nợ gốc quá hạn đã bị xử lý thông qua việc áp dụng lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Việc tiếp tục tính lãi chậm trả 10%/năm đối với phần dư nợ lãi sẽ là xử lý hành vi không trả nợ đúng hạn 02 lần đối với một hành vi vi phạm. Vì vậy, các Thẩm phán giải quyết vụ án không chấp nhận và bác bỏ một phần yêu cầu khởi kiện của TCTD tương ứng với phần lãi chậm trả.
Một tình huống pháp lý về vấn đề nêu trên tại Bản án dân sự phúc thẩm số 25/2023/DS-PT ngày 26/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh QN về vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa Nguyên đơn là Ngân hàng TMCP VNTV với Bị đơn là bà Đàm Thu H.
Trong vụ án này, Ngân hàng đã ký kết hợp đồng tín dụng với bà H với thời hạn vay, lãi suất theo thỏa thuận. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bà H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng yêu cầu bà H phải thanh toán nghĩa vụ trả nợ, bao gồm trả nợ gốc, nợ lãi trong hạn, nợ lãi quá hạn và lãi chậm trả; trường hợp bà H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay. Tòa án sơ thẩm đã buộc bà H phải trả cho Ngân hàng toàn bộ số nợ gốc, nợ lãi trong hạn, nợ lãi quá hạn và lãi chậm trả (lãi chậm trả tính trên lãi quá hạn và lãi trong hạn chưa trả).
Tòa án phúc thẩm cũng buộc bà H phải trả cho Ngân hàng toàn bộ số nợ gốc, nợ lãi trong hạn, nợ lãi quá hạn, nhưng chỉ buộc bà H phải trả lãi chậm trả là với lý do chỉ được áp dụng lãi chậm trả đối với lãi trong hạn chưa trả, việc Ngân hàng tính lãi chậm trả trên lãi quá hạn và lãi trong hạn chưa trả với số tiền lãi chậm trả là không đúng thỏa thuận trong hợp đồng, không đúng quy định của pháp luật nên việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ số tiền lãi chậm trả này là không chính xác.
Theo tác giả, việc Tòa án cấp phúc thẩm quyết định xét xử trong trường hợp này là rõ ràng và thuyết phục. Thực tiễn xét xử này có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc có tình huống pháp lý tương tự. Bởi trong nội dung vụ án này: Hợp đồng tín dụng có thỏa thuận khoản tiền phạt chậm trả lãi được tính trên khoản nợ lãi trong hạn và khoản nợ lãi quá hạn. Bên vay vi phạm nghĩa vụ thanh toán, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bên vay phải thanh toán nợ gốc, lãi trên nợ gốc trong hạn, lãi trên nợ gốc quá hạn, lãi chậm trả (bao gồm lãi trên nợ lãi trong hạn và lãi trên nợ lãi quá hạn) có thể xem là “lãi chồng lãi”.
Trên thực tế các văn bản quy phạm pháp luật không quy định cụ thể về hướng dẫn tính lãi chậm trả. Việc này ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng tín dụng: (i) Bên vay vốn sẽ phải trả nợ với số tiền lãi nhiều hơn so với quy định pháp luật; (ii) Bên cho vay là các TCTD nếu khởi kiện ra tòa, trong trường hợp, yêu cầu khởi kiện về nội dung này không được chấp nhận, các TCTD phải chịu án phí trên phần Lãi chậm trả này. Thực tế các khoản nợ khi TCTD áp dụng biện pháp khởi kiện để thu hồi nợ đa phần đều là khoản nợ xấu, nợ chây ỳ, bên vay không hợp tác, không có thiện chí trả nợ. Từ khi phát sinh vi phạm nghĩa vụ trả nợ đến khi TCTD khởi kiện ra Tòa án, Tòa án xét xử là một khoảng thời gian đáng kể, trong đó lãi quá hạn và các chi phí khác đã phát sinh. Nếu trong vụ việc này, nội dung về “lãi chậm trả” bị kháng cáo hoặc kháng nghị, vụ án có thể kéo dài thêm một khoảng thời gian ở cấp phúc thẩm. Trong thời gian đó, khoản nợ tiếp tục không được thanh toán, chi phí xử lý nợ tăng lên và tài sản bảo đảm có thể bị suy giảm giá trị. Điều này cho thấy ngay cả một “thỏa thuận” cũng tiềm ẩn nguy cơ kéo dài và gây thiệt hại nếu không có cách giải quyết phù hợp.
Tóm lại, việc tính lãi, lãi suất trong hợp đồng tín dụng của các TCTD được áp dụng theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan để giải quyết mà không áp dụng quy định về giới hạn lãi suất của Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định lãi, lãi suất.
Do đó TAND các cấp khi giải quyết cần xem xét, đánh giá trên cơ sở các quy định nêu trên, đảm bảo quyền lợi của các TCTD và các đương sự theo quy định của pháp luật về cho vay của TCTD. Đề xuất có văn bản hướng dẫn rõ quy định về cách tính lãi chậm trả theo công thức tính:
“Lãi chậm trả = (Số tiền lãi trong hạn phải trả nhưng chưa trả được theo phân kỳ trả nợ) x Lãi suất chậm trả (% năm) x số ngày chậm trả/365”
Tuy nhiên, trên thực tế xét xử tại Toà án thì Toà án thường áp dụng công thức trên để tính lãi chậm trả, nhưng Tòa án không chấp nhận tính lãi chậm trả trên lãi quá hạn nhằm tránh việc xử lý “lãi chồng lãi” đối với cùng một hành vi vi phạm nghĩa vụ trả nợ.
- Lãi chậm trả là khoản tiền lãi phát sinh khách hàng phải trả cho TCTD khi lãi tiền vay đến hạn mà khách hàng không trả hoặc trả không đầy đủ. Số tiền lãi chậm trả được tính trên số tiền lãi trong hạn (không bao gồm lãi quá hạn) theo phân kỳ trả nợ tương ứng với thời gian chậm trả của khách hàng được quy định tại HĐTD. Lãi suất chậm trả do TCTD nơi cho vay và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm.
Việc xác định và áp dụng lãi chậm trả trong hợp đồng tín dụng hiện nay vẫn còn nhiều vướng mắc, đặc biệt là sự thiếu nhất quán trong việc hiểu và áp dụng các quy định pháp lý. Mặc dù Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản pháp lý liên quan đã đưa ra những quy định cơ bản về lãi suất và lãi chậm trả, nhưng chưa có hướng dẫn chi tiết và thống nhất về cách tính lãi chậm trả trong các trường hợp cụ thể, đặc biệt là đối với phần dư nợ lãi quá hạn phát sinh từ dư nợ gốc quá hạn.
Tình trạng này không chỉ gây khó khăn trong việc thực thi hợp đồng tín dụng mà còn dẫn đến các tranh chấp pháp lý, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia giao dịch. Trong khi đó, việc các TCTD không thể thu hồi đầy đủ khoản lãi chậm trả khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ thanh toán gây ra thiệt hại đáng kể cho tổ chức tín dụng và làm giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính. Để giải quyết vấn đề này, rất cần có sự hướng dẫn cụ thể từ Ngân hàng Nhà nước và Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về phương pháp tính lãi chậm trả, đảm bảo sự đồng bộ và thống nhất trong áp dụng pháp luật. Đồng thời, các tổ chức tín dụng cần phải rà soát và cải tiến các điều khoản hợp đồng tín dụng, đảm bảo tính minh bạch và rõ ràng, giúp tránh các rủi ro pháp lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên trong giao dịch tín dụng. Chỉ khi có những quy định pháp lý rõ ràng và được thực thi một cách đồng nhất, các vấn đề liên quan đến lãi chậm trả trong hợp đồng tín dụng mới có thể được giải quyết một cách hiệu quả và công bằng, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển ổn định của thị trường tín dụng.
Danh mục tài liệu tham khảo
- Bộ luật dân sự năm 2015
- Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 về Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
- Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 (và các văn bản sửa đổi bổ sung) của Ngân hàng nhà nước quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng:
- https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta1199056t1cvn/chi-tiet-ban-an
Toà án nhân dân Khu vực 7- Đắk Lắk
Phan Bá Bảy, Đặng Thị Thu Hà, Huỳnh Quốc Thắng
Các tin khác
- “Hạn chế, khó khăn, vướng mắc và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc thu thập chứng cứ”.
- Những bất cập trong hoạt động định giá tài sản khi giải quyết vụ án dân sự – Giải pháp khắc phục và kiến nghị
- Bàn về thời hạn ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong vụ án Dân sự
- Bàn về văn bản ủy quyền trong Tố tụng Dân sự: Giấy ủy quyền hay Hợp đồng ủy quyền?
- Trao đổi về bài viết “Áp dụng tình tiết tăng nặng “xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” khi người dưới 18 tuổi xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội như thế nào cho đúng?”