Có nên gia hạn thời hạn ủy thác thu thập chứng cứ trong vụ án Dân sự
Cập nhật lúc: 09:14 30/09/2020
Thực tiễn giải quyết vụ án dân sự, quá trình thu thập chứng cứ đối với Tòa án thụ lý vụ án với Tòa án thực hiện công việc ủy thác có sự tương đồng với nhau tuy nhiên thời hạn giải quyết của Tòa án thụ lý vụ án và Tòa án thực hiện công việc ủy thác có sự khác nhau về thời hạn giải quyết:
Theo quy định tại điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự thì thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án; Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật tố tụng dân sự thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại Điều 26 và Điều 28 và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại Điều 30 và Điều 32.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn như: Lập hồ sơ vụ án, xác minh, thu thập chứng cứ, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, thẩm định tại chỗ, tiến hành định giá tài sản hoặc các biện pháp khác để thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết của vụ việc dân sự, tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và các quyền khác theo Điều 97, 198, khoản 2, 3 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự:
Với quy định trên thì thời hạn giải quyết vụ án của Thẩm phán tính cả thời hạn gia hạn là 06 tháng đối với các vụ án theo Điều 26 và Điều 28, đối với các vụ án theo Điều 30 và Điều 32 là 03 tháng.
Tại khoản 3 Điều 105 Bộ luật tố tụng dân sự về ủy thác thu thập chứng cứ thì Tòa án nhận được quyết định ủy thác có trách nhiệm thực hiện công việc cụ thể được ủy thác trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác và thông báo kết quả bằng văn bản cho Tòa án đã ra quyết định ủy thác; Trường hợp không thực hiện được việc ủy thác thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho Tòa án đã ra quyết định ủy thác.
Với quy định này thì thời hạn của Thẩm phán thực hiện công việc ủy thác trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được ủy thác, không có quy định thời hạn gia hạn thời hạn ủy thác. Tuy nhiên Thẩm phán thực hiện công việc ủy thác gần giống với công việc của Thẩm phán giải quyết vụ án nên việc thực hiện công việc ủy thác không đảm bảo được thời gian thu thập chứng cứ:
Ví dụ: Tòa án huyện A thụ lý vụ án hôn nhân và gia đình, nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phân chia tài sản chung là bất động sản trong khối tài sản của các thành viên khác trong hộ gia đình tại huyện B. Như vậy khi giải quyết Tòa án A ủy thác cho Tòa án B thực hiện việc điều tra xác minh đối với bất động sản tại huyện B, thời hạn thực hiện công việc ủy thác của Tòa án B là 01 tháng.
Trong trường hợp này nếu nguyên đơn, bị đơn không yêu cầu ly hôn mà khởi kiện tranh chấp đối với bất động sản tại huyện B, thì Tòa án B là nơi có bất động sản thụ lý vụ án nhưng với thời hạn giải quyết lại là 04 tháng, gia hạn 02 tháng, tổng thời hạn giải quyết là 06 tháng, trong khi cùng vụ việc này được giải quyết trong vụ án ly hôn thì Tòa án B chỉ được thực hiệc công việc trong vòng 01 tháng (công việc ủy thác). Do đó Tòa án B không thể thực hiện công ủy thác trong 01 tháng để giải quyết cho công việc giải quyết vụ án là 06 tháng.
Từ phân tích trên có quan điểm cho rằng cần quy định thêm thời hạn gia hạn thời hạn ủy thác trong Điều 105 Bộ luật tố tụng dân sự. Thẩm quyền gia hạn thời hạn ủy thác có thể quy định 01 trong hai tòa:
Trường hợp Tòa án thụ lý vụ án ra quyết định gia hạn thời hạn ủy thác thì khi có thông báo của Tòa án nhận ủy thác về việc chưa hoàn thành được công việc ủy thác do không đủ thời hạn thực hiện công việc, thì Tòa án thụ lý vụ án ra quyết định gia hạn thời hạn ủy thác gửi cho Tòa án nhận ủy thác, nếu thời hạn giải quyết vụ án đã hết thì Tòa án ủy thác ra quyết định tạm đình chỉ vụ án “Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác thu thập chứng cứ” theo điểm đ Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự.
Trường hợp Tòa án thực hiện công việc ủy thác ra quyết định gia hạn thời hạn ủy thác thì khi thời hạn thực hiện công việc ủy thác đã hết, cần có thêm thời hạn để thực hiện công việc thì Tòa án nhận ủy thác thông báo cho Tòa án thực hiện việc ủy thác biết về việc chưa hoàn thành được công việc ủy thác do không đủ thời hạn thực hiện công việc, đồng thời ra quyết định gia hạn thực hiện công việc ủy thác và gửi cho Tòa án thụ lý vụ án quyết định gia hạn, nếu thời hạn giải quyết vụ án đã hết thì Tòa án ủy thác ra quyết định tạm đình chỉ vụ án “Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác thu thập chứng cứ” theo điểm đ Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự.
Từ những phân tích và quan điểm trên của tác giả thì quan điểm của bạn đọc với nội dung trên như thế nào?
Thẩm phán: Lưu Quốc Chinh
TAND huyện Ea Súp
Các tin khác
- VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC XỬ LÝ VẬT CHỨNG LÀ TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
- VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC ÁP DỤNG ĐIỀU 74 LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
- BÀI VIẾT: Nâng cao việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường của cán bộ, công chức Tòa án hai cấp tỉnh Đắk Lắk.
- Trao đổi quan điểm bài viết Trần Văn D và đồng phạm, phạm tội gì.
- Trần Văn D và đồng bọn phạm tội gì?