Bàn về văn bản ủy quyền trong Tố tụng Dân sự: Giấy ủy quyền hay Hợp đồng ủy quyền?
Cập nhật lúc: 14:49 29/07/2025
Hiện nay không ít Tòa án yêu cầu đương sự phải nộp hợp đồng ủy quyền có công chứng hoặc chứng thực, trong khi một số Tòa án lại từ chối giấy ủy quyền có chứng thực chữ ký với lý do không phù hợp quy định tại Thông tư 01/2020/TT-BTP của Bộ Tư pháp. Điều này dẫn đến sự thiếu thống nhất trong thực tiễn áp dụng và làm phát sinh ý kiến xuất phát từ đương sự và người nhận ủy quyền tham gia tố tụng.
1. Đặt vấn đề
Văn bản ủy quyền là một phương tiện pháp lý thiết yếu để cá nhân, tổ chức thực hiện quyền đại diện trong nhiều lĩnh vực, trong đó có tố tụng dân sự. Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS) và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) đều ghi nhận quyền ủy quyền tham gia tố tụng, đồng thời quy định rõ hình thức, nội dung của giao dịch ủy quyền. Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng hiện nay bộc lộ một số bất cập trong việc tiếp nhận và đánh giá hiệu lực pháp lý của văn bản ủy quyền. Trong phạm vi bài viết, tác giả chỉ xin trao đổi vấn đề văn bản ủy quyền trong tố tụng dân sự.
Cụ thể, hiện nay không ít Tòa án yêu cầu đương sự phải nộp hợp đồng ủy quyền có công chứng hoặc chứng thực, trong khi một số Tòa án lại từ chối giấy ủy quyền có chứng thực chữ ký với lý do không phù hợp quy định tại Thông tư 01/2020/TT-BTP của Bộ Tư pháp. Điều này dẫn đến sự thiếu thống nhất trong thực tiễn áp dụng và làm phát sinh ý kiến xuất phát từ đương sự và người nhận ủy quyền tham gia tố tụng.
2. Khái niệm và phân biệt giữa giấy ủy quyền và hợp đồng ủy quyền
Theo quy định tại Điều 562 BLDS 2015, hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa bên ủy quyền và bên được ủy quyền. Bản chất pháp lý của loại giao dịch này là hợp đồng song vụ – nghĩa là cả hai bên cùng tham gia xác lập ý chí và có thể ràng buộc về quyền và nghĩa vụ.
Ngược lại, “giấy ủy quyền” không được định nghĩa cụ thể trong văn bản pháp luật, song trên thực tế thường được hiểu là văn bản đơn phương do bên ủy quyền lập, thể hiện ý chí ủy quyền cho người khác thực hiện một hoặc một số hành vi dân sự thay mặt mình. Xét theo lý luận pháp lý, đây là giao dịch dân sự đơn phương và vẫn có thể làm phát sinh hậu quả pháp lý nếu đáp ứng đủ điều kiện theo Điều 117 BLDS 2015.
Về hình thức, hợp đồng ủy quyền có thể được công chứng hoặc chứng thực, tùy theo tính chất của công việc được ủy quyền. Trong khi đó, giấy ủy quyền thường chỉ yêu cầu chứng thực chữ ký của người ủy quyền tại UBND cấp xã hoặc tổ chức hành nghề công chứng.
3. Thông tư 01/2020/TT-BTP và những vướng mắc trong áp dụng thực tiễn
Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc từ chối giấy ủy quyền trong tố tụng dân sự đến từ Thông tư số 01/2020/TT-BTP ngày 3/3/2020 của Bộ Tư pháp. Cụ thể, tại điểm a Khoản 4 Điều 24 của Thông tư này quy định:
“Việc chứng thực chữ ký trên giấy ủy quyền chỉ thực hiện đối với các trường hợp sau đây:
Ủy quyền nhận tiền, nhận hàng;
Ủy quyền cho người thân trong gia đình thực hiện việc nộp hồ sơ, nhận kết quả giải quyết thủ tục hành chính;
Ủy quyền cho người thân trong gia đình quản lý nhà, đất;
Một số trường hợp cá biệt khác theo quy định của pháp luật.”
Căn cứ vào quy định này, một số Tòa án cho rằng ủy quyền tham gia tố tụng không nằm trong phạm vi được chứng thực theo Thông tư, từ đó không công nhận giá trị của giấy ủy quyền có chứng thực chữ ký khi đương sự nộp kèm hồ sơ khởi kiện, kháng cáo hoặc các thủ tục tố tụng khác.
Tuy nhiên, cách hiểu và vận dụng như vậy là chưa thực sự phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành. Cần lưu ý rằng Thông tư 01/2020 là văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ chứng thực, không có giá trị điều chỉnh hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung hay quyền đại diện trong tố tụng nói riêng. Điều 117 BLDS quy định điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, trong đó hình thức chỉ là điều kiện bắt buộc khi pháp luật quy định, mà pháp luật tố tụng không hề bắt buộc văn bản ủy quyền phải là hợp đồng công chứng.
Ngoài ra, Điều 85 BLTTDS 2015 chỉ yêu cầu người đại diện theo ủy quyền nộp “văn bản ủy quyền hợp pháp”, chứ không bắt buộc phải là hợp đồng ủy quyền có công chứng. Từ góc độ lý luận, nếu giấy ủy quyền đáp ứng điều kiện của giao dịch dân sự về chủ thể, nội dung, hình thức, thì vẫn có giá trị làm căn cứ xác lập quyền đại diện hợp pháp của người được ủy quyền trong tố tụng.
4. Kiến nghị hoàn thiện cơ chế áp dụng thống nhất
Thực trạng nêu trên đặt ra nhu cầu cấp thiết về việc thống nhất nhận thức và áp dụng pháp luật giữa các cấp Tòa án. Để đảm bảo quyền tố tụng của đương sự và tránh những tranh cãi không đáng có, kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn chính thức về vấn đề này, trong đó:
5. Kết luận
Giữa giấy ủy quyền và hợp đồng ủy quyền tồn tại sự khác biệt về bản chất pháp lý và hình thức, song cả hai đều có thể làm phát sinh quan hệ đại diện nếu đáp ứng điều kiện của giao dịch dân sự. Đã đến lúc cần có sự định hướng thống nhất từ TANDTC để bảo đảm quyền đại diện của đương sự được bảo vệ khi tham gia tố tụng.
Trên đây là nội dung trao đổi của người viết, rất mong nhận được sự góp ý, trao đổi từ quý bạn đọc và đồng nghiệp.
Mai Loan – Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
Việt Tiệp – Tòa án nhân dân Khu vực 9
Các tin khác
- Trao đổi về bài viết “Áp dụng tình tiết tăng nặng “xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” khi người dưới 18 tuổi xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội như thế nào cho đúng?”
- Cần có hướng dẫn liên quan đến hồ sơ thi hành án Hình sự
- Tòa án có ban hành quyết định đình chỉ thi hành án phạt tù đối với Nguyễn Văn A không?
- Một số điểm mới tại Thông tư liên tịch số 01/2023/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 18/01/2023 về thi hành án hình sự tại cộng đồng.
- Áp dụng tình tiết tăng nặng “xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” khi người dưới 18 tuổi xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội như thế nào cho đúng?