Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự 2015
Cập nhật lúc: 15:24 28/02/2017
Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự 2015
I. Cơ sở lý luận của việc quy định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
1. Khái niệm và bản chất pháp lý của loại trừ trách nhiệm hình sự.
Nghiên cứu BLHS Việt Nam hiện hành cho thấy, thuật ngữ "loại trừ TNHS" duy nhất được sử dụng tại đoạn 2 Điều 53 BLHS về "Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm". Ngoài ra, trong BLHS còn sử dụng một số thuật ngữ có nội dung tương đương và gắn với từng trường hợp cụ thể (mặc dù nội hàm chưa đồng nhất) như: "không phải là tội phạm"; "không phải chịu TNHS"; "không có tội"; v.v... khi đề cập đến hậu quả pháp lý của mỗi trường hợp tương ứng trong Bộ luật này như sau:
- Hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể - thì không phải là tội phạm (khoản 4 Điều 8);
- Sự kiện bất ngờ - thì không phải chịu TNHS (Điều 11).
- Người chưa đủ tuổi chịu TNHS thực hiện - thì không phải chịu TNHS (quy định gián tiếp trong Điều 12).
- Tình trạng không có năng lực TNHS - thì không phải chịu TNHS (khoản 1 Điều 13).
- Phòng vệ chính đáng - thì không phải là tội phạm (Điều 15).
- Tình thế cấp thiết - thì không phải là tội phạm (Điều 16).
Đặc biệt, trong Phần các tội phạm BLHS, các nhà làm luật nước ta còn quy định một trường hợp được coi là "không có tội": "Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ (khoản 6 Điều 289) v.v..
Như vậy, về cơ bản, các nhà lý luận - thực tiễn đều quan niệm những tình tiết trên là các trường hợp loại trừ TNHS do BLHS quy định (mặc dù còn một số tình tiết vẫn đang tranh luận). Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ chưa thống nhất này với từng trường hợp cụ thể và xét về tổng thể thì giữa các thuật ngữ đã nêu không có gì mâu thuẫn. Bởi lẽ, suy cho cùng, thì hậu quả pháp lý hình sự mà người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội đều giống nhau - họ không phải chịu TNHS, có nghĩa được loại trừ TNHS. Nói một cách khác, khi đề cập đến TNHS với tư cách là hậu quả pháp lý của tội phạm, trong thực tế bao giờ cũng dẫn đến ba khả năng đối với một người - phải chịu TNHS, được miễn TNHS hay không phải chịu TNHS, có nghĩa là được loại trừ TNHS. Do đó, dưới góc độ khoa học, theo chúng tôi, loại trừ TNHS là trường hợp một người đã có hành vi gây thiệt hại cho xã hội, nhưng căn cứ vào các quy định của BLHS thì họ không phải chịu TNHS về hành vi này.
2. Ý nghĩa của việc quy định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam.
Những trường hợp loại trừ TNHS không những sẽ góp phần tháo gỡ những tồn tại trong thực tiễn xét xử, bảo đảm sự phù hợp với pháp luật hình sự các nước trên thế giới và hoàn thiện BLHS Việt Nam, mà còn thực hiện xu hướng nhân đạo hóa hơn nữa trong BLHS, cũng như bảo đảm tốt hơn nữa lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đặc biệt, việc hoàn thiện BLHS về vấn đề này còn nâng cao nhận thức của công dân về quyền và nghĩa vụ của mình - trường hợp nào thì hành vi gây thiệt hại cho xã hội phải chịu TNHS, là hành vi sai trái; còn trường hợp nào thì không phải chịu trách nhiệm, là việc làm có ích, nên làm, qua đó chủ động và tích cực phát huy tinh thần đấu tranh phòng, chống không khoan nhượng đối với tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật trong xã hộ.
II. Thực trạng quy định pháp luật về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015
1. Sự kiện bất ngờ:
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Sự kiện bất ngờ là trường hợp người thực hiện hành vi nguy hại cho xã hội không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả của hành vi đó, tức là người có hành vi nguy hiểm không có lỗi trong việc gây ra hậu quả hoặc đe dọa gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Không có lỗi cũng tức là hành vi của họ không cấu thành tội phạm.
Sự kiện bất ngờ được quy định tại Điều 11 Bộ luật hình sự, nhưng cho đến nay các sách báo cũng ít để cập đến sự kiện bất ngờ, nếu có cũng chỉ đề cập khi phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm. Trong cuộc sống cũng như thực tiễn xét xử, không ít trường hợp do không đánh giá đúng các điều kiện của chế định này nên đã kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm.
Sự kiện bất ngờ là hành vi gây thiệt hại không bị coi là có lỗi cố ý hoặc vô ý phạm tội được quy định tại Điều 9 và Điều 10 Bộ luật hình sự chứ không phải lỗi theo khái niệm thông thường.
Một người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây hậu quả hoặc đe dọa gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ thuộc một trong hai trường hợp sau:
a) Không thể thấy trước hậu quả của hành vi
Không thể thấy trước được hậu quả của hành vi là trước khi thực hiện hành vi, người đó không nhận thức được hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả, sự nhận thức này của họ có cơ sở khoa học và được mọi người thừa nhận, ai trong hoàn cảnh này đều không thể thấy trước được hậu quả sẽ xảy ra, nhưng thực tế hậu quả lại xảy ra. Việc giải quyết mâu thuẫn giữa cái tất yếu với nhận thức của người có hành vi gây ra hậu quả đó không phải bao giờ cũng dễ dàng. Thông thường người có hành vi gây ra hậu quả đó cho rằng mình không thể thấy trước được hậu quả, còn người bị thiệt hại thì lại cho rằng người có hành vi có thể thấy trước được hậu quả nhưng vẫn hành động.
Vì vậy, khi đánh giá một người có hành vi gây ra hậu quả có thể thấy trước được hậu quả của hành vi hay không phải căn cứ vào điều kiện khách quan và chủ quan khi xảy ra sự việc. Về khách quan, trong hoàn cảnh cụ thể đó, bất kỳ ai cũng không thấy trước được hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm, còn về chủ quan phải xem xét các đặc điểm về nhân thân của người có hành vi gây ra hậu quả như: tuổi, trình độ hiểu biết, bệnh tật và những đặc điểm về nhân thân khác có ảnh hưởng đến nhận thức của họ.
b) Không buộc phải thấy trước
Không buộc phải thấy trước là khi có khả năng thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, nhưng theo pháp luật không buộc họ phải thấy trước hậu quả của hành vi và nếu có hậu quả xảy ra thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm đó.
Sự kiện bất ngờ chính là sự loại trừ trường hợp có hành vi nguy hiểm cho xã hội do lỗi vô ý vì cẩu thả, nên giữa sự kiện bất ngờ với lỗi vô ý do cẩu thả có những điểm giống nhau và khác nhau, khi không có căn cứ xác định người có hành vi do vô ý vì cẩu thả thì cũng tức là hành vi của họ thuộc trường hợp do sự kiện bất ngờ. Vì vậy, khi nghiên cứu sự kiện bất ngờ, chúng ta không thể không nghiên cứu hình thức lỗi vô ý vì cẩu thả.
Vô ý vì cẩu thả là trường hợp do cẩu thả mà người phạm tội không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước. Cẩu thả là không cẩn thận trước khi hành động, nếu cẩn thận thì hậu quả sẽ không xảy ra.
Tiêu chuẩn để xác định một người phải thấy trước và có thể thấy trước cũng giống với tiêu chuẩn xác định một người gây thiệt hại do sự kiện bất ngờ. Đó là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra sự việc, một người bình thường cũng có thể thấy trước và trong hoàn cảnh cụ thể đó ai cũng không thấy trước thì là do sự kiện bất ngờ. Như vậy, giữa sự kiện bất ngờ với lỗi vô ý vì cẩu thả có đặc điểm giống nhau là người có hành vi đều không thấy trước được hậu quả.
Khi đặt vấn đề không buộc người gây thiệt hại phải thấy trước hành vi của mình gây ra hậu quả, không chỉ căn cứ vào các văn bản pháp luật cụ thể nào của Nhà nước quy định về việc không buộc mà còn phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra sự việc, trình độ nhận thức của người gây thiệt hại và các tình tiết khác. Thông thường, nếu mọi người nói chung rơi vào hoàn cảnh đó thì cũng không thấy được hậu quả xảy ra, thì người gây thiệt hại cũng được công nhận là gây thiệt hại do sự kiện bất ngờ.
Sự kiện bất ngờ là trường hợp không có lỗi, nhưng không vì thế mà cho rằng tất cả những trường hợp không có lỗi đều là sự kiện bất ngờ. Trong một số sách báo, các tác giả khi nói về sự kiện bất ngờ thường nêu trường hợp không có lỗi như “ tình trạng không thể khắc phục được ”. Thực ra tình trạng không thể khắc phục được không phải là sự kiện bất ngờ, nhưng vì Bộ luật hình sự không phải là sự kiện bất ngờ, nhưng vì Bộ luật hình sự không quy định trường hợp “ tình trạng không thể khắc phục được ” nên khi phân tích, các tác giả thường gắn trường hợp này với sự kiện bất ngờ. Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, ngoài tình trạng không thể khắc phục được, còn một số trường hợp không bị coi là có lỗi nhưng Bộ luật hình sự chưa quy định như: chấp hành chỉ thị, quyết định hoặc mệnh lệnh, sự mạo hiểm chấp nhận được về kinh tế hoặc nghề nghiệp, gây thiệt hại trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang.
2.Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và điều khiển được hành vi ấy. Nếu một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng họ không nhận thức được hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội hoặc nhận thức được nhưng không điều khiển được hành vi đó là người không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Theo quy định tại khoản 1 điều 13 bộ luật hình sự, thì tình trạng không có nặng lực trách nhiệm hình sự là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Như vậy, tiêu chuẩn (dấu hiệu) để xác định một người không có năng lực trách nhiệm hình sự là mắc bệnh (tiêu chuẩn y học) và tâm lý (mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển). Cả hai dấu hiệu này có mối liên quan chặt chẽ với nhau, cái này là tiền đề của cái kia và ngược lại. Một người vì mắc bệnh nên mất khả năng điều khiển và bị mất khả năng điều khiển vì họ mắc bệnh.
Theo quy định tại khoản 1 điều 13 bộ luật hình sự thì người bị mắc bệnh là bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Cho đến nay chưa có giải thích chính thức nào về trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại điều 13 bộ luật hình sự. Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã thừa nhận một người không có năng lực trách nhiệm hình sự khi họ mắc một trong các bệnh sau: bệnh tâm thần kinh niên, bệnh loạn thần, bệnh si ngốc, các bệnh gây rối loạn tinh thần tạm thời.
Một người bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh làm mất khả năng nhận thức phải được hội đồng giám định tâm thần xác định và kết luận. Ở nước ta, ngành tâm thần học mới ra đời, nhưng đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, cho đến nay, những kiến thức về tâm thần học trong nhân dân và ngay trong đội ngũ cán bộ y tế còn hạn chế, chưa đáp ứng được sự đòi hỏi về phòng và chữa bệnh tâm thần cũng như việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự đối với người mắc bệnh tâm thần thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Có nhiều trường hợp, có những kết luận trái ngược nhau về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự giữa các hội đồng giám định tâm thần làm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội không chính xác. Thậm chí có trường hợp kết luận của hội đồng giám định không được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận vì kết luận đó thiếu cơ sở khoa học, không phù hợp với trạng thái tầm thần của người phạm tội. Để đáp ứng yêu cầu của việc giám định pháp y nói chung và giám định tâm thần nói riêng, vừa qua thủ tưởng chính phủ đã quyết định thành lập viện giám định pháp y trung ương trực thuộc bộ y tế.
Thực tiễn xét xử cho thấy có trường hợp một người bị mắc bệnh tâm thần nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự bởi vì khi thực hiện hành vi phạm tội họ không mắc bệnh. Pháp luật nước ta cũng như một số nước trên thế giới đều quy định: chỉ người nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng họ đang bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức thì mới không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (loại trừ trách nhiệm hình sự).
Chỉ khi nào người mắc bệnh tâm thần tới mức làm mất khả năng nhận thức hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra mới được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự. Nếu bệnh của họ chưa tới mức làm mất khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình thì tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, họ phải chịu toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm hình sự .
Luật hình sự nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới không loại trừ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội do say rượu hoặc do dùng chất kích thích mạnh khác. Bởi vì trước đó họ là người có năng lực trách nhiệm hình sự và khi họ uống rượu hoặc sử dụng chất kích thích là tự họ đặt mình vào tình trạng “ say” nên họ có lỗi. Say rượu là một hiện tượng không bình thường trong xã hội, là một thói xấu trong sinh hoạt, việc bắt người say rượu phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội do họ gây ra còn là biểu thị thái độ nghiêm khắc của xã hội đối với tệ nạn say rượu. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng nếu người phạm tội không có lỗi trong việc uống rượu và như vậy họ cũng không có lỗi trong việc say rượu sẽ được thừa nhận là không có năng lực trách nhiệm hình sự. Ngoài trường hợp say rượu bình thường, về y học còn có trường hợp say rượu bệnh lý. Thực tiễn xét xử cũng đã xảy ra trường hợp hội đồng giám định pháp y tâm thần kết luận người phạm tội do say rượu bệnh lý, nhưng họ vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đó là trường hợp Phạm Đình Tứ ở Nghệ Tĩnh (cũ) sau khi uống rượu cùng với thầy giáo cũ tại nhà thầy, trong đêm hôm đó Tứ đã thức dậy dùng dao chém nhiều nhát vào vợ, con và thầy giáo, nhưng chỉ có vợ con thầy giáo chết còn thầy giáo của Tứ thì thoát nạn. Do có hai bản giám định trái ngược nhau về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự nên Bộ Y tế thành lập hội đồng giám định pháp y tầm thần và két luận Phạm Đình Tứ phạm tội do say rượu bệnh lý. Căn cứ vào hành vi phạm tội của Phạm Đình Tứ, có xem xét đến kết quả giám định của hội đồng giám định pháp y tâm thần do Bộ Y tế thành lập nên Toà án đã phạt tù chung thân đối với Phạm Đình Tứ về tội giết người. Như vậy, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, ở nước ta không thừa nhận tình trạng say rượu dù đó là say rượu bệnh lý cũng không được loại trừ trách nhiệm hình sự. Ở một số nước, trong đó có các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ coi trường hợp say rượu bệnh lý được loại trừ trách nhiệm hình sự.
Một người mắc bệnh tâm thần trong khi thực hiện hành vi phạm tội họ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng họ phải bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Đối với người lúc thực hiện hành vi phạm tội họ không mắc bệnh tâm thần nhưng sau khi phạm tội và trước khi toà kết án mà họ lại mắc bệnh tâm thần tới mức không nhận thức được hành vi của mình thì họ cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, nhưng sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
Người phạm tội cũng được loại trừ trách nhiệm hình sự nếu khi thực hiện hành vi phạm tội họ mắc một bệnh nào đó và bệnh đó đã làm mất khả năng điều khiển hành vi của mình. Đây là trường hợp người phạm tội vẫn nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì bị bệnh nên họ không điều khiển được hành vi của mình theo ý muốn nên đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Thông thường những người ở trong tình trạng này là trường hợp theo quy định của pháp luật buộc họ phải hành động, nhưng vì bị bệnh nên họ không thể hành động theo ý muốn nên đã gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ: một nhân viên đường sắt có nhiệm vụ bẻ ghi cho tàu hoả đi vào đúng đường ray, nhưng vì người này bị lên cơn sốt ác tính nên không thể thực hiện được nhiệm vụ được giao làm cho tàu hoả đâm vào đoàn tầu đang đỗ trong ga gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến người và tài sản.
3. Phòng vệ chính đáng:
- Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
- Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.
Khi xem xét một hành vi có được coi là phòng vệ chính đáng hay không cần hội tủ các yếu tố:
- Thứ nhất, về phía nạn nhân: là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác (người thứ ba). Hành vi xâm phạm này phải là hành vi có tính chất nguy hiểm đáng kể. Mức độ đáng kể ở đây là tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm phạm, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công của nạn nhân (người có hành vi xâm phạm).
- Thứ hai, về phía người phòng vệ: Nếu thiệt hại do người có hành vi xâm phạm gây ra có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, có thể là thiệt hại về tài sản, nhân phẩm, danh dự hoặc các lợi ích xã hội khác, thì thiệt hại do người có hành vi phòng vệ gây ra chỉ có thể là thiệt hại tính mạng hoặc sức khoẻ về cho người có hành vi xâm phạm.
- Thứ ba, hành vi chống trả là cần thiết. Cần thiết là sự thể hiện tính không thể không chống trả, không thể bỏ qua trước một hành vi xâm phạm đến các lợi của xã hội. Khi đã xác định hành vi chống trả là cần thiết thì thiệt hại gây ra cho người có hành vi xâm phạm dù có lớn hơn thiệt hại mà người có hành vi xâm phạm gây ra cho người phòng vệ vẫn được coi là phòng vệ chính đáng.
Ngoài ra, tại Khoản 2 Điều 15 Bộ luật hình sự có quy định về vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng: "đó là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự”.
4. Tình thế cấp thiết
- Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
- Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, quy định này xác định việc gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa không bị coi là tội phạm. Đồng thời, người có hành vi gây thiệt hại sẽ không bị truy cứu trách nhiệm Hình sự. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết và không phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ những điều kiện sau:
-Phải có sự nguy hiểm đang đe dọa gây ra thiệt hại ngay tức khắc
Sự nguy hiểm đang đe dọa gây ra thiệt hại có thể phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau như: thiên tai, do sự tấn công của súc vật,... Sự nguy hiểm đang đe dọa gây ra thiệt hại phải là sự nguy hiểm đe dọa ngay tức khắc thì mới được coi là trong trường hợp tình thế cấp thiết, nếu sự nguy hiểm đó chưa xảy ra hoặc đã kết thúc thì không được coi là gây ra thiệt hại trong tình thế cấp thiết
- Sự nguy hiểm đang đe dọa phải là sự nguy hiểm thực tế. Sự nguy hiểm không chứa đựng khả năng thực tế gây ra hậu quả cho xa hội mà chỉ do người gây thiệt hại tưởng tượng ra thì không được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết. Mối quan hệ nhân quả giữ sự nguy hiểm với các lợi ích cần bảo vệ là mối quan hệ tất yếu, nếu không có biện pháp thì hậu quả tất yếu sẽ xảy ra. Ví dụ như một ngôi nhà đang cháy mạnh trong thời tiết khô hanh, nếu không dỡ bỏ các nhà lân cận thì đám cháy sẽ lan rộng gây ra thiệt hại.
- Việc gây thiệt hại để tránh một thiệt hại khác là sự lựa chọn duy nhất.
5. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
- Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.
- Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.
Khi nghiên cứu về trường hợp này, khi bắt giữ người mà gây ra thiệt hại hợp pháp, có quan điểm cho rằng, "việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang có lệnh truy nã nếu cần thiết phải dùng vũ lực với họ, thì có thể căn cứ vào chế định phòng vệ chính đáng hoặc tình thế cấp thiết là giải quyết được vấn đề này". Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, nếu chỉ dựa vào chế định phòng vệ chính đáng hoặc tình thế cấp thiết thì chưa bao quát hết các trường hợp gây thiệt hại khi bắt người phạm tội, vì việc bắt người này không phải là để ngăn chặn hành vi tấn công đang diễn ra xâm phạm các lợi ích chính đáng được BLHS bảo vệ (lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác) trong phòng vệ chính đáng; cũng như đe dọa ngay tức khắc các lợi ích đó trong tình thế cấp thiết, rõ ràng đây chính là cơ sở của phòng vệ chính đáng và của tình thế cấp thiết, chứ không phải là của việc gây thiệt hại trong khi bắt người phạm tội (thực tế là do phạm tội quả tang hoặc đang có lệnh truy nã). Ngoài ra, mục đích bắt các đối tượng này là nhằm chuyển giao họ cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân), còn mục đích của chế định phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết là loại trừ sự nguy hiểm đang đe dọa hoặc trực tiếp đe dọa ngay tức khắc. Do đó, việc bổ sung trường hợp loại trừ TNHS "Gây thiệt hại hợp pháp khi bắt người phạm tội" là cần thiết vì đây hành vi phù hợp với lợi ích của xã hội, qua đó mới phát huy tinh thần chủ động đấu tranh ngăn chặn hành vi phạm tội và bắt giữ kịp thời những người đang lẩn trốn sự trừng trị của pháp luật, cũng như là "minh chứng về ý thức pháp luật và tính tích cực đối với trách nhiệm công dân của người bắt giữ...". Hơn nữa, thực tế cũng không nhiều người dũng cảm dám đứng ra ngăn chặn và bắt giữ các đối tượng này, đặc biệt dùng thuật ngữ "người phạm tội" để phản ánh thực tiễn lúc đó bất kỳ người dân nào cũng không thể biết trước đó là phạm tội quả tang hay đang bị truy nã, chỉ biết là họ là người phạm tội. Mặc dù vậy, để tránh sự tùy tiện, đòi hỏi việc sử dụng vũ lực gây thiệt hại cho người thực hiện tội phạm hoặc đang bị truy nã thì trong khi bắt họ phải là cách duy nhất, cũng như thực tế hoàn cảnh lúc đó đòi hỏi là việc làm bất đắc dĩ để người phạm tội không thể tiếp tục thực hiện tội phạm (nếu đang phạm tội quả tang) hoặc tiếp tục trốn tránh sự truy nã, tìm kiếm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (nếu đang có lệnh truy nã). Như vậy, trình tự, thủ tục bắt người là của luật tố tụng hình sự, còn nội dung gây thiệt hại khi bắt người hợp pháp lại thuộc phạm vi điều chỉnh của luật hình sự, nên cần thiết phải quy định trong BLHS.
6. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.
Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Hiện nay, trước sự phát triển, thay đổi như vũ bão của khoa học, công nghệ, kinh tế đòi hỏi các nhà khoa học, nhà sản xuất có những phát kiến, cải tiến, ứng dụng để đưa vào thử nghiệm với mục đích có lợi, có ích cho xã hội, cho cộng đồng (như: nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, giảm bớt chi phí, thời gian, công sức, nâng cao sức khỏe, an toàn cho cộng đồng, phục vụ cho an ninh quốc phòng, sản xuất, tiêu dùng, y học, bảo đảm phát triển bền vững; v.v..). Tuy nhiên, trong quá trình đưa vào thử nghiệm những giải pháp, kiến nghị hay sáng kiến luôn chứa đựng sự rủi ro, mạo hiểm, nên có trường hợp đã gây thiệt hại cho xã hội, cho Nhà nước, song không vì thế mà các nhà khoa học không dám suy nghĩ, họ vẫn dám làm và dám chịu trách nhiệm để tiến hành. Do đó, để khuyến khích những ý tưởng mới, sáng tạo, cải tiến chân chính, động viên sự sáng tạo của các nhà khoa học, nhà sản xuất và khi họ đã áp dụng đúng các quy trình, yêu cầu ngặt nghèo về an toàn nhưng do những sự cố, xác suất rủi ro ngoài mong muốn, ngoài tiên liệu và khả năng nhận thức, phòng ngừa của mình, thì dưới góc độ pháp lý, cần có hành lang an toàn cho họ yên tâm thử nghiệm, ứng dụng, song mục đích của các thử nghiệm này chỉ duy nhất là đem lại lợi ích thiết thực nhất cho xã hội. Vì thế, nên quy định "Rủi ro trong sản xuất, nghiên cứu khoa học" là một trường hợp loại trừ TNHS trong BLHS.
7. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.
Nói chung, bất kỳ người nào khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được tính trái pháp luật của hành vi, thì họ đương nhiên phải chịu TNHS (dù thực hiện hành vi đó thực hiện theo mục đích gì, theo yêu cầu, quyết định của ai). Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, khi thi hành quyết định (mệnh lệnh) của cấp trên (đối với cán bộ, công chức) có trường hợp người thi hành gây thiệt hại cho xã hội thì điểm đáng mừng đã được ghi nhận trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008 tại Điều 9 khi quy định nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ: ".... Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Ngoài ra, quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình". Điều 11 còn quy định quyền của cán bộ, công chức được bảo đảm các điều kiện thi hành công vụ: ".... Được pháp luật bảo vệ khi thi hành công vụ". Còn trước đó đã ghi nhận trong các văn bản về lực lượng vũ trang, quân sự khi đòi hỏi thực hiện tuyệt đối nguyên tắc "cấp dưới phải phục tùng cấp trên" đối với mệnh lệnh, chỉ thị hay quyết định. Vì vậy, rõ ràng vấn đề này nên được điều chỉnh kịp thời trong BLHS. Hơn nữa, do tính chất bắt buộc của quyết định đó nên người thi hành quyết định thường tin tưởng vào quyết định của cấp trên vì việc thi hành là thực hiện mong muốn của người lãnh đạo, cấp trên của mình. Vì vậy, khi bổ sung trường hợp "Thi hành quyết định của cấp trên" vào trong BLHS đòi hỏi phải làm rõ một số vấn đề nhằm bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công chức hoặc người thi hành mệnh lệnh trong lực lượng vũ trang, quân sự:
a) Quyết định của cấp trên là đúng pháp luật - trường hợp này có hai khả năng sau:
- Người thi hành quyết định của cấp trên đầy đủ, đúng phạm vi được giao và đúng pháp luật nhưng gây ra thiệt hại cho xã hội, thì họ không phải chịu TNHS, do họ không có lỗi.
- Người thi hành quyết định của cấp trên tự ý thực hiện hành vi vượt quá phạm vi được giao gây ra thiệt hại cho xã hội, thì họ phải chịu TNHS về hậu quả do hành vi vượt quá đó.
b) Quyết định của cấp trên là trái pháp luật - trường hợp này có ba khả năng sau:
- Người thi hành quyết định của cấp trên không biết được tính chất không đúng pháp luật của quyết định và cũng không có nghĩa vụ phải biết, thì họ không phải chịu TNHS, do họ khôngcó lỗi, còn người cấp trên phải chịu TNHS.
- Người thi hành quyết định của cấp trên biết được tính chất không đúng pháp luật của quyết định, mà họ vẫn thực hiện và gây ra thiệt hại cho xã hội, thì họ phải chịu TNHS cùng với cấp trên.
- Người thi hành quyết định của cấp trên biết được tính chất không đúng pháp luật của quyết định, nên đã không thực hiện, thì họ không phải chịu TNHS.
III. Kiến nghị tiếp tục hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 2015 về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự và một số giải pháp bảo đảm áp dụng
1. Kiến nghị tiếp tục hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 2015 về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng quy định về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015.
Các tin khác
- VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC XỬ LÝ VẬT CHỨNG LÀ TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
- VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC ÁP DỤNG ĐIỀU 74 LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
- BÀI VIẾT: Nâng cao việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường của cán bộ, công chức Tòa án hai cấp tỉnh Đắk Lắk.
- Trao đổi quan điểm bài viết Trần Văn D và đồng phạm, phạm tội gì.
- Trần Văn D và đồng bọn phạm tội gì?