Bàn về thời hạn ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong vụ án Dân sự
Cập nhật lúc: 08:21 30/09/2025
Theo quy định tại Điều 196 và Điều 199 của Bộ luật tố tụng dân sự, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Thông báo thụ lý vụ án, bị đơn phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập (nếu có). Nếu cần gia hạn, thì phải có đơn. Hết thời hạn này nếu không có ý kiến thì Toà án sẽ căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, ngay sau khi được Tòa án thụ lý vụ án, các đương sự đã cung cấp đầy đủ chứng cứ theo quy định tại Điều 93, Điều 94 của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự không tranh chấp, không có yêu cầu phản tố hay yêu cầu độc lập. Căn cứ vào Điều 208, 211, 212 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, lập biên bản hòa giải thành theo quy định.
Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành, không có đương sự nào có thay đổi ý kiến về sự thoả thuận nên Tòa án ban hành quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
Quá trình giải quyết vụ án, có hai quan điểm về thời hạn ban hành Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự (không đặt ra đối với vụ án tạm đình chỉ hoặc đình chỉ) cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất, thời hạn tối thiểu để ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là hết 15 ngày, có nghĩa là ngày thứ 16 trở đi kể từ ngày thụ lý vụ án theo quy định tại Điều 196 và Điều 199 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án mới được ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Ví dụ 1: Ngày 01/01/2023, Tòa án nhân dân khu vực I thụ lý vụ kiện giữa ông A khởi kiện yêu cầu B phải trả số tiền 100.000.000 đồng nợ gốc và tiền lãi theo quy định của pháp luật. Cùng ngày Tòa án đã mời các đương sự lên làm việc, trình bày ý kiến, các bên đều thừa nhận có sự việc vay tiền gốc và lãi như A khởi kiện, Tòa án đã giải thích đầy đủ quy định quyền và nghĩa vụ cho đương sự, nên các đương sự đã tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án về số nợ gốc và lãi suất. Ngày 09/01/2023, Tòa án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các đương sự hòa giải thành. Hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày hòa giải thành (09/01/2023), ngày 16/01/2023 Tòa án nhân dân khu vực I ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Quan điểm thứ hai, thời hạn tối thiểu để ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là hết 07 ngày (tính cả ngày nghỉ, lễ), có nghĩa là ngày thứ 08 trở đi kể từ ngày thụ lý vụ án Tòa án ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Ví dụ 2: Theo nội dung ví dụ 1, ngày 01/01/2023, Tòa án nhân dân khu vực I thụ lý, cùng ngày Tòa án đã mời các đương sự lên làm việc, trình bày ý kiến và tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các đương sự hòa giải thành và được Tòa án lập biên bản. Hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày hòa giải thành (01/01/2023), ngày 08/01/2023 Tòa án nhân dân khu vực I ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi lẽ: Khi giải quyết vụ việc, các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án, pháp luật cũng cho thời hạn để các đương sự trình bày hay thay đổi ý kiến (trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành) nhưng các đương sự vẫn không thay đổi ý kiến nên sau 07 ngày Tòa án ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự vẫn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự đồng thời vẫn tuân theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Mục đích quy định về thời gian để các đương sự trình bày, thay đổi ý kiến. Tuy nhiên theo tác giả, việc trình bày hay thay đổi ý kiến chỉ xảy ra đối với những vụ việc các đương sự không thỏa thuận, không thống nhất với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án. Còn đối với những vụ việc tình tiết, sự kiện đã rõ ràng, toàn bộ nội dung đều được các đương sự thỏa thuận, thống nhất thì Tòa án có thể ban hành Quyết định công nhận khi hết thời hạn 07 ngày là hoàn toàn phù hợp, vẫn đảm bảo quyền và lợi ích, thời gian, chi phí cho đương sự.
Thiết nghĩ, số lượng án ngày một gia tăng. Do đó, đòi hỏi các vụ án cần được giải quyết nhanh chóng, kịp thời. Vậy nên, các quyết định của Tòa án nếu được ban hành trong thời gian sớm nhưng vẫn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là điều rất cần thiết, đặc biệt là đối với những đương sự ở xa, vụ việc dân sự đã rõ ràng, các đương sự đều tự nguyện thỏa thuận với nhau về toàn bộ nội dung vụ án.
Trên đây là ý kiến trao đổi của tác giả về thực tiễn liên quan đến thời hạn ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận trong vụ án dân sự. Rất mong các đồng nghiệp và bạn đọc đóng góp ý kiến.
TAND khu vực 7 – Đắk Lắk
Phan Bá Bảy - Phạm Công Đức
Các tin khác
- “Hạn chế, khó khăn, vướng mắc và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc thu thập chứng cứ”.
- Những bất cập trong hoạt động định giá tài sản khi giải quyết vụ án dân sự – Giải pháp khắc phục và kiến nghị
- Trao đổi nghiệp vụ: Vướng mắc trong việc xác định lãi chậm trả trong hợp đồng tín dụng và giải pháp Pháp lý
- Bàn về văn bản ủy quyền trong Tố tụng Dân sự: Giấy ủy quyền hay Hợp đồng ủy quyền?
- Trao đổi về bài viết “Áp dụng tình tiết tăng nặng “xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” khi người dưới 18 tuổi xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội như thế nào cho đúng?”