Một số vướng mắc khi áp dụng Điều 259 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về tạm ngừng phiên tòa trong thực tiễn xét xử sơ thẩm vụán dân sự
Cập nhật lúc: 17:23 14/10/2020
Tạm ngừng phiên tòa là một trong số các quy định mới, tiến bộ của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 so với Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011, quy định nàyphù hợp với thực tiễn xét xử hiện nay;mục đích của tạm ngừng phiên tòa nhằm tiết kiệt thời gian vàgiảm chi phí tố tụng, bởi khác với việc hoãn phiên tòa, khi tiếp tục tiến hành phiên tòa sau thời gian tạm ngừng thì Hội đồng xét xử không phải xét xử vụán lại từ đầu mà xét xử tiếp theo phầnđã tạm ngừng trước đó.
Cụ thể, Điều 259 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về tạm ngừng phiên tòa như sau:
“1. Trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạm ngừng phiên tòa khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng;
b) Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, trừ trường hợp người tham gia tố tụng có yêu cầu xét xử vắng mặt;
c) Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa;
d) Chờ kết quả giám định bổ sung, giám định lại;
đ) Các đương sự thống nhất đề nghị Tòa án tạm ngừng phiên tòa để họ tự hòa giải;
e) Cần phải báo cáo Chánh án Tòa án để đề nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 221 của Bộ luật này.
2. Việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Thời hạn tạm ngừng phiên tòa là không quá 01 tháng, kể từ ngày Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn này, nếu lý do để ngừng phiên tòa không còn thì Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành phiên tòa; nếu lý do để ngừng phiên tòa chưa được khắc phục thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Hội đồng xét xử phải thông báo bằng văn bản cho những người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian tiếp tục phiên tòa”.
Trong thực tiễn xét xử,chúng tôi nhận thấykhi áp dụng quy định về tạm ngừng phiên tòa còn một số vướng mắc, cần được hướng dẫnđểáp dụng pháp luật một cách thống nhất, cụ thể như sau:
1. Trường hợp tạm ngừng phiên tòa theo điểm a khoản 1 Điều 259: “Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng”.
Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm gồm: Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên và Thư ký Tòaán. Trong trường hợp có một trong số những người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa mà không có người thay thế thì Hội đồng xét xử phải tạm ngừng phiên tòa,và theo quy định tại khoản 2 Điều 259 Bộ luật tố tụng dân sự: “Việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa”.
Tuy nhiên, trường hợp vì lý do sức khỏe mà người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục phiên tòa chính là Thư ký Tòa án thì điều luật chưa xác định người ghi biên bản phiên tòa, trường hợp này Hội đồng xét xử có được lập biên bản riêng để ghi nhận sự việc hay không?
2. Tạm ngừng phiên tòa theo điểm c khoản 1 Điều 259: “Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa”.
Đặt ra trường hợp phiên tòa dân sự sơ thẩm đang diễn ra không có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp (ngoài các trường hợp đại diện Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự). Quá trình xét xử, Hội đồng xét xử xác định cần phải tạm ngừng phiên tòa để xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mới có đủ căn cứ giải quyết vụ án. Sau khi Tòa án tiến hành xác minh, thu thập và bổ sung chứng cứ thì vụ án thuộc trường hợp phải có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự, cụ thể: “Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc…”.
Hiện Bộ luật tố tụng dân sự và văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định về vấn đề này, từ đó phát sinh 02 quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: Sau khi Tòa án xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ, Tòa án tiếp tục xét xử vụ án mà không có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát.
Quan điểm thứ hai: Sau khi tạm ngừng phiên tòa, Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ nên vụán thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự, do đó, tại phiên tòa sơ thẩm phải có sự có mặt củađại diện Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Chúng tôi thống nhất với quan điểm thứ hai, bởi nó phù hợp với quy định của pháp luật, đảm bảo công tác kiểm sát việc tuân theo luật của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụán. Tuy nhiên, nếuđại diện Viện kiểm sát chỉ tham gia phiên tòa kể từ thời điểm tiếp theo phần đã tạm ngừng trước đó thì chưa đảm bảo việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật một cách đầyđủ, toàn diện. Bởi lẽ, nếu chỉ tham gia từ thời điểm đã tạm ngừng phiên tòa, Kiểm sát viên sẽ không nắm được nội dung và diễn biến vụ án, yêu cầu của các bên tại phiên tòa; ngoài ra sẽ làm mất đi quyền thay đổi kiểm sát viên của các đương sự, mà quyền này của các đương sự chỉ được thực hiện tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa.
Để giải quyết vấn đề này, quan điểm của chúng tôi là sau khi quyết định tiếp tục giải quyết vụ án, mở lại phiên tòa, Tòa án có thể thông báo bổ sung Viện kiểm sát tham gia phiên tòa và thực hiện thủ tục chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu, quyết định cử Kiểm sát viên tham gia phiên tòa và phiên tòa phải được mở lại từ đầu.
3. Trường hợp tạm ngừng phiên tòa để xác minh, thu thập bổ sung tài liệu theo điểm c khoản 1 Điều 259 Bộ luật tố tụng dân sự, sau đó mới phát sinh thêm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có đơn yêu cầu độc lập.
Ví dụ: Hộ gia đình A (gồm các thành viên A, B,C,D), A khởi kiện yêu cầu phân chia tài sản chung của hộ gia đình là quyền sử dụng đất. Quá trình giải quyết vụ án, khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử, tại phiên tòa phát sinh E. E cung cấp cho Tòa án hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên, người chuyển nhượng là B,C,D. Do đó, Tòa án phải tạm ngừng phiên tòa để thu thập thêm tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc chuyển nhượng đất và đưa E vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.Sau khi thu thập tài liệu, chứng cứ, Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành phiên tòa hay vụ án phải công khai chứng cứ và hòa giải lại hiệncũng có các ý kiến khác nhau.
Ý kiến thứ nhất: Vụ án trên đã được công khai chứng cứ, hòa giải và đã đưa ra xét xử thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử mà không phải công khai chứng cứ, hòa giải lại (thủ tục này có thể thực hiện tại phiên tòa).
Ý kiến thứ hai: Sau khi tạm ngừng phiên tòa mới phát sinh thêm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Như vậy, tại thời điểm này người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới biết được quyền và nghĩa vụ của mình trong vụ án. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi của đương sự, Tòa án phải tiến hành thụ lý đơn yêu cầu độc lập và tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải lại. Chúng tôi thống nhất với ý kiến thứ hai.
4.Trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trong thời gian tạm ngừng phiên tòa hoặc rút đơn khởi kiện trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án (tạm đình chỉ sau khi tạm ngừng phiên tòa).
Trong thời gian tạm ngừng phiên tòa, nguyên đơn tự nguyện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, trong vụ án không có yêu cầu phản tố của bị đơn và không có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp này, thẩm quyền đình chỉ giải quyết vụ án thuộc về Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hay của Hội đồng xét xử?
Theo quan điểm của chúng tôi, thẩm quyền đình chỉ giải quyết vụ án phải thuộc về Hội đồng xét xử. Sau khi có đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử phải tiếp tục tiến hành phiên tòa để xem xét việc rút yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, trên cơ sở đó mới ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụán theo mẫu số 46-DS (dành cho Hội đồng xét xử), ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, các nội dung này phải được ghi vào biên bản phiên tòa.
Tương tự đối với trường hợp vụ án đã tạm đình chỉ (sau khi tạm ngừng), sau đó nguyên đơn tự nguyện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện thì thẩm quyền đình giải quyết vụ án thuộc về Hội đồng xét xử như đã phân tích ở trên.
5. Quy định thời hạn tạm ngừng phiên tòa tại khoản 2 Điều 259 Bộ luật tố tụng dân sự là không quá 01 tháng, hết thời hạn này nếu lý do để ngừng phiên tòa không còn thì Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành phiên tòa. Tuy nhiên, trên thực tế có thể phát sinh tình huống đến ngày cuối cùng của thời hạn 01 tháng nêu trên thì lý do tạm ngừng phiên tòa mới không còn, nếu quy định Hội đồng xét xử phải tiếp tục tiến hành phiên tòa trong thời gian giới hạn không quá 01 tháng (kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa) thì sẽ không đủ thời gian để triệu tập đầy đủ người tham gia tố tụng tham gia phiên tòa, gây khó khăn cho việc xét xử. Để khắc phục vấn đề này, thiết nghĩ cần có quy định thêm về khoảng thời gian nhất định kể từ khi lý do tạm ngừng phiên tòa không còn, Hội đồng xét xử phải tiếp tục tiến hành phiên tòa.
Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 259 Bộ luật tố tụng dân sự, khi hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa mà lý do tạm ngừng phiên tòa chưa được khắc phục thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Do điều luật quy định thẩm quyền tạm đình chỉ vụ án thuộc về Hội đồng xét xử nên hiện tại có hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: Hội đồng xét xử phải tiếp tục tiến hành phiên tòa, trên cơ sở kết quả thảo luận tại phiên tòa mới quyết định việc tạm đình chỉ vụán.
Quan điểm thứ hai: Trường hợp này, không cần thiết phải mở lại phiên tòa, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử ban hành quyết định tạm đình chỉ vụ án. Chúng tôi thống nhất với quan điểm thứ hai, vì khi lý do tạm ngừng phiên tòa chưa được khắc phục thì Hội đồng xét xử chưa tiếp tục tiến hành phiên tòa.
Trên đây là một số vướng mắc trong quá trình áp dụngĐiều 259 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vào thực tiễn xét xử, tác giả rất mong nhận được sự góp ý, phản biện của bạn đọc.
Các tin khác
- VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC XỬ LÝ VẬT CHỨNG LÀ TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
- VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC ÁP DỤNG ĐIỀU 74 LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
- BÀI VIẾT: Nâng cao việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường của cán bộ, công chức Tòa án hai cấp tỉnh Đắk Lắk.
- Trao đổi quan điểm bài viết Trần Văn D và đồng phạm, phạm tội gì.
- Trần Văn D và đồng bọn phạm tội gì?