Quyết định Tòa án có hiệu lực pháp luật về Hợp đồng thế chấp tài sản thì có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố văn công chứng vô hiệu không?
Cập nhật lúc: 04:11 14/01/2022
Nội dung vụ án: Vào ngày 19/01/2017 vợ chồng ông T, bà H lập Hợp đồng chuyển nhượng đối với 05 thửa đất theo các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Số: K 062233; số: A 088992; số: V 457904; số: BK 666511 và số: K 062234 cho vợ chồng ông S, bà V và được công chứng tại Văn phòng công chứng H. 05 thửa đất này được Văn phòng đăng ký đất đai thị xã H đăng ký biến động chuyển nhượng cho vợ chồng ông S, bà V vào ngày 20/01/2017. Sau đó, vợ chồng ông S, bà V đã dùng 05 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên thế chấp cho Ngân hàng chi nhánh huyện N, vay số tiền 2.000.000.000 (Hai tỷ đồng). Do không trả được nợ nên Ngân hàng đã khởi kiện vợ chồng ông S, bà V tại TAND huyện N, vụ án được thụ lý về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” và được giải quyết tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số: 88/2019/QĐST-DS, ngày 18/7/2019 (Sau đây gọi tắt là Quyết định số: 88). Nội dung quyết định nêu trên thể hiện: “…Ông S và bà V phải trả cho Ngân hàng số tiền gốc và lãi tính đến ngày 09/7/2019 là 2.320.091.667 đồng. Tiếp tục tính lãi suất phát sinh theo hợp đồng tín dụng cho đến khi ông S và bà V trả xong nợ. Về thời hạn, phương thức trả nợ và xử lý tài sản thế chấp: Theo trình tự thủ tục thi hành án dân sự…”
Đến ngày 30/5/2021, vợ chồng ông T, bà H khởi kiện yêu cầu TAND thị xã H tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 19/01/2017 tại Văn phòng công chứng H, giữa bên chuyển nhượng là vợ chồng ông T, bà H với bên nhận chuyển nhượng là vợ chồng ông S, bà V vô hiệu do bị lừa dối, giả tạo. Vụ án được thụ lý, về việc: “Yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu”.
Trong quá trình nghiên cứu giải quyết có 02 quan điểm khác nhau về việc giải quyết vụ án nêu trên, cụ thể:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Vụ án này có nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật tranh chấp khác so với vụ án thụ lý số: 169/2019/TLST- DS, ngày 17/6/2019. Tại Quyết định số: 88 của TAND huyện N thể hiện nội dung: “...Về thời hạn, phương thức trả nợ và xử lý tài sản thế chấp: Theo trình tự thủ tục thi hành án dân sự…”. Quyết định nêu trên chỉ tuyên việc xử lý tài sản theo trình tự thi hành án dân sự, không tuyên rõ Ngân hàng có quyền phát mãi tài sản nào để thi hành án nên chưa đủ căn cứ xác định 05 quyền sử dụng đất là đối tượng trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà nguyên đơn yêu cầu Toà án tuyên bố vô hiệu đã được giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Quan hệ pháp luật này chưa được giải quyết và chưa có phán quyết nào về tranh chấp giữa nguyên đơn là vợ chồng ông T, bà H với bị đơn là vợ chồng ông S, bà V. Vì vậy, không thể căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 192; điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự để đình chỉ giải quyết vụ án nói trên.
- Quan điểm thứ hai và cũng là quan điểm của tác giả cho rằng: Yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu nói trên thuộc trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Căn cứ Án lệ số: 38/2020/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 13/8/2020 và được công bố theo Quyết định số: 276/QĐ-CA ngày 02/10/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 192, điểm g khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Đình chỉ giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi kiện.
Tác giả xin được phân tích, lập luận các căn cứ để chứng minh quan điểm của mình như sau:
Thứ nhất, trước khi vợ chồng ông T, bà H khởi kiện vợ chồng ông S, bà V về hợp đồng nêu trên thì Ngân hàng đã khởi kiện vợ chồng ông S, bà V về vụ án: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” được thụ lý và được giải quyết tại Quyết định số: 88 của TAND huyện N.
Thứ hai, tại quyết này đã có nội dung xử lý tài sản thế chấp (Gồm 05 QSDĐ) theo trình tự thủ tục thi hành án dân sự để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của vợ chồng ông S, bà V đối với Ngân hàng. Căn cứ Hợp đồng chuyển nhượng hợp pháp nên Văn phòng đăng ký đất đai thị xã H mới đăng ký biến động chuyển nhượng 05 thửa đất nêu trên cho vợ chồng ông S, bà V vào ngày 20/01/2017 và vợ chồng ông S, bà V đã thế chấp 05 quyền sử dụng đất này để vay vốn Ngân hàng. Như vậy, Hợp đồng vay tài sản đã xác định Hợp đồng thế chấp tài sản là hợp pháp, Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất là loại hợp đồng bắt buộc phải công chứng theo quy định nên hợp pháp. Mặc dù, vụ án này có nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật tranh chấp khác so với vụ án Tranh chấp hợp đồng vay tài sản đã được thụ lý và giải quyết trước đó. Nhưng đối tượng trong Hợp đồng thế chấp tài sản và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà vợ chồng ông T, bà H khởi kiện vợ chồng ông S, bà V tại TAND thị xã H là một. Như vậy, yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu nói trên thuộc trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án tại Quyết định số: 88 của TAND huyện N. Nếu vợ chồng ông T, bà H không đồng ý với quyết định này thì có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm (Khi còn thời hiệu) hoặc tái thẩm (Khi có căn cứ) chứ không có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu nêu trên.
Trên đây là quan điểm của tác giả về đường lối và căn cứ giải quyết vụ án nói trên. Xin được trao đổi với các đồng nghiệp. Mong nhận được nhiều ý kiến tranh luận của đồng nghiệp./.
Các tin khác
- VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC XỬ LÝ VẬT CHỨNG LÀ TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
- VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC ÁP DỤNG ĐIỀU 74 LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
- BÀI VIẾT: Nâng cao việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường của cán bộ, công chức Tòa án hai cấp tỉnh Đắk Lắk.
- Trao đổi quan điểm bài viết Trần Văn D và đồng phạm, phạm tội gì.
- Trần Văn D và đồng bọn phạm tội gì?