Trao đổi về tình tiết, sự kiện không phải chứng minh Điều 92 BLTTDS
Cập nhật lúc: 10:08 26/11/2019
Trao đổi về tình tiết, sự kiện không phải chứng minh Điều 92 BLTTDS
Vào năm 2017 ông Tạ Tiến G (chồng bà Cao Thị T) gây thương tích cho ông Trần Th nên bị Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm xét xử buộc ông Tạ Tiến G phải bồi thường 17.792.000đ cho ông Trần Th.
Năm 2018 Chi cục thi hành án dân sự huyện E ban hành Quyết định thi hành án, Quyết định cưỡng chế thi hành án và kê biên xử lý tài sản là 02 con bò cái trị giá 12.600.000đ. bà Cao Thị T có đơn khiếu nại về việc cưỡng chế kê biên tài sản. Chi cục thi hành án dân sự huyện E và Cục thi hành án dân sự tỉnh Đ ban hành Quyết định giải quyết đơn khiếu nại của bà T với nội dung: Chấp hành viên đã xác minh điều kiện thi hành án của ông Tạ Tiến G thể hiện tài sản chung của ông G và bà Cao Thị T trong đó có 09 con bò nên không chấp nhận toàn bộ đơn khiếu nại của bà Cao Thị T.
Ngày 16 tháng 01 năm 2019 ông Cao Văn L, người được ủy quyền ông Phạm Xuân Đ có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện E giải quyết buộc bà Cao Thị T phải trả cho ông Cao Văn L tổng số tiền 45.000.000đ bao gồm trị giá 02 con bò đã bị bắt thi hành án là 35.000.000đ và 10.000.000đ tiền công chăn dắt.
Quá trình Tòa án giải quyết vụ án:
Đối với số tiền 10.000.000đ tiền công chăn dắt ông L không ủy quyền cho ông Phạm Xuân Đ tham gia tố tụng, ngày 03/05/2019 tại biên bản lấy lời khai đương sự của Tòa án nhân dân huyện Đức L, tỉnh B theo yêu cầu ủy thác của Tòa án nhân dân huyện E thì ông L đã rút yêu cầu số tiền này nên Tòa án nhân dân huyện E đã đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện.
Đối với trị giá 02 con bò 35.000.000 đồng ông Cao Văn L cho rằng đây là 02 con bò mẹ, trong số bò vào năm 2015 ông đưa 40.000.000 đồng cho bà Cao Thị T để mua 05 con bò giống, trong đó có 02 con bò mẹ và 03 con bò con để chăn nuôi cho ông L, đến tháng 9 năm 2018 tổng bầy bò là 11 con, bà T đã bán đi 02 con bò đực, bầy bò còn lại 09 con và hàng năm ông đều trả tiền công chăn dắt cho bà T. Quá trình giải quyết vụ án ông L không cung cấp được giấy tờ về việc đưa tiền cho bà T mua bò, tiền trả công chăn dắt, cũng không có người làm chứng, bản thân hai ông Bùi Công T, Nguyễn Văn T cũng không trực tiếp chứng kiến, sự việc chỉ có ông L và bà T thỏa thuận miệng với nhau.
Bị đơn bà Cao Thị T thừa nhận 02 con bò Chi cục thi hành án huyện E bắt kê biên thi hành án là của ông L, bà cũng đồng ý trả ông L trị giá 02 con bò 35.000.000 đồng, tuy nhiên bà khẳng định chỉ mua 03 con bò giống (loại bò bô), trong đó có 02 con bò mẹ và 01 con bò con đang còn bú sữa với giá 38.000.000 đồng, đến năm 2018 tổng bầy là bò 11 con, đã bán đi 02 con bò, bầy bò còn lại 09 con. Tại biên bản kê biên xử lý tài sản ngày 11/9/2018 của Chấp hành viên Chi cục thi hành án huyện E có xác nhận của chính quyền địa phương và phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện E thì 02 con bò Chi cục thi hành án huyện Ea Súp bắt thi hành án có 01 con bò lai sim, 01 con bò tơ cái (loại bò cỏ), quá trình giải quyết vụ án bà T không cung cấp được giấy tờ về việc bà mua bò, loại bò, số lượng bò, ông L đưa tiền cho bà mua bò, tiền trả công chăn dắt, cũng không có người làm chứng, sự việc chỉ có ông L và bà thỏa thuận miệng với nhau.
Từ những nội dung trên của vụ án có các quan điểm như sau:
1. Quan điểm thứ nhất: Chi cục thi hành án dân sự huyện E cưỡng chế thi hành 02 con bò, người bị thi hành án ông G bà T cho rằng không phải là tài sản cùa mình, ông Cao Văn L cho rằng là tài sản của ông L thì ông G, bà T, ông L làm đơn khiếu nại đến Thi hành án dân sự các cấp giải quyết theo thủ tục khiếu nại, tố cáo nếu ông G, bà T có chứng cứ chứng minh không phải tài sản của mình, ông L có chứng cứ chứng minh là tài sản của mình thì Thi hành án phải hủy quyết định kê biên và trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại nên Tòa án căn cứ theo điểm đ khoản 1 Điều 192, điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ vụ án với lý do vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
2. Quan điểm thứ hai: Ngày 17/10/2018 Chi cục thi hành án dân sự huyện E ban hành Quyết định số: 36/QĐ-CCTHADS. Ngày 12/11/2018 Cục thi hành án dân sự tỉnh Đ ban hành Quyết định số: 1315/QĐ-CCTHADS giải quyết đơn khiếu nại của bà T với nội dung: Chấp hành viên đã xác minh điều kiện thi hành án của ông Tạ Tiến G thể hiện tài sản chung của ông G và bà Cao Thị T trong đó có 09 con bò nên không chấp nhận toàn bộ đơn khiếu nại của bà Cao Thị T. Đây là sư việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án căn cứ điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ vụ án.
3. Quan điểm thứ ba: Nguyên đơn ông Cao Văn L khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Cao Thị T phải trả trị giá 02 con bò là 35.000.000đ bà T cũng đồng ý, đây là trường hợp “ Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối…..” những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự nên. Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Từ những quan điểm như trên, bạn đọc có quan điểm về việc giải quyết vụ án này như thế nào?
Các tin khác
- VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC XỬ LÝ VẬT CHỨNG LÀ TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
- VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC ÁP DỤNG ĐIỀU 74 LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
- BÀI VIẾT: Nâng cao việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường của cán bộ, công chức Tòa án hai cấp tỉnh Đắk Lắk.
- Trao đổi quan điểm bài viết Trần Văn D và đồng phạm, phạm tội gì.
- Trần Văn D và đồng bọn phạm tội gì?