Về Quyết định lãi, lãi suất trong bản án, quyết định của Tòa án.

Cập nhật lúc: 18:24 29/03/2022

Ngày 11 tháng 01 năm 2019 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2019/ NQ- HĐTP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 03 năm 2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.

         Trong quá trình áp dụng, thực hiện Nghị quyết đa số các Thẩm phán Tòa án nhân dân  hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã nhận thức và áp dụng thực hiện đúng, đầy đủ. Tuy nhiên vẫn còn một số Thẩm phán Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk khi thực hiện còn lúng túng, nhận thức chưa đúng nội dung Nghị quyết, trong bản án , quyết định không ghi đúng như hướng dẫn tại Điều 13 của Nghị quyết. Để nhận thức đúng đắn và áp dụng thống nhất một số nội dung quan trọng của Nghị quyết số 01/2019/ NQ - HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, Thẩm phán Tòa án hai cấp tỉnh ĐắkLắk cần nghiên cứu áp dụng thống nhất một số nội dung sau:

          I.Về Phạm vi điều chỉnh: Điều 1 của  Nghị quyết quy định:

          Nghị quyết này hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm trong hợp đồng vay tài sản; lãi suất trung bình trên thị trường; quyết định lãi, lãi suất trong bản án, quyết định của Tòa án.

          Hợp đồng vay tài sản hướng dẫn trong Nghị quyết này bao gồm hợp đồng cho vay tài sản là tiền giữa tổ chức tín dụng với khách hàng (sau đây gọi là hợp đồng tín dụng) và hợp đồng vay tài sản là tiền giữa cá nhân, pháp nhân không phải là tổ chức tín dụng với nhau (sau đây gọi là hợp đồng vay tài sản không phải là hợp đồng tín dụng).

           Như vậy, cần hiểu thống nhất: Hợp đồng cho vay tài sản là tiền giữa tổ chức tín dụng với khách hàng (sau đây gọi là hợp đồng tín dụng) là hợp đồng vay tài sản.

II. Về Quyết định lãi, lãi suất trong bản án, quyết định của Tòa án : Điều 13 của  Nghị quyết quy định:

           1. Khi giải quyết vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án thì Tòa án phải quyết định trong bản án hoặc quyết định (Phần quyết định) như sau:

           a). Đối với trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà các bên có thỏa thuận về việc trả lãi thì quyết định “Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015”.

        b). Đối với trường hợp khoản tiền phải thu nộp vào ngân sách Nhà nước mà pháp luật có quy định nghĩa vụ trả lãi; hoặc khoản tiền bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; hoặc trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ về tài sản trong hoặc ngoài hợp đồng khác mà các bên không thỏa thuận về việc trả lãi thì quyết định “ Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

          2. “Mức lãi suất hai bên thỏa thuận” hướng dẫn tại khoản 1 điều này là mức lãi suất nợ quá hạn các bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc tại Tòa án. Trường hợp, các bên không có thỏa thuận về mức lãi suất nợ quá hạn thì mức lãi suất nợ quá hạn bằng 150% mức lãi suất trong hạn.

          Như vậy, khi giải quyết vụ án hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án thì Tòa án phải quyết định trong bản án hoặc quyết định (Phần quyết định) là bắt buộc cho nên Thẩm phán các cấp phải nghiêm chỉnh chấp hành ghi trong bản án đúng như quy định tại mục a, b khoản 1 của Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/ NQ- HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của HĐTP Tòa án nhân dân Tối cao.

 

Văn Công Dần                      

                                                                  Tòa Dân sự - Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk