Vướng mắc về thẩm quyền của Toà án khi Người được hoãn chấp hành án phạt tù thay đổi nơi cư trú.
Cập nhật lúc: 10:41 09/05/2022
Ngày 28 tháng 11 năm 2019 Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 64/2019/TT-BCA quy định về giải quyết trường hợp người được tha tù trước thời hạn có điều kiện, người được hoãn chấp hành án phạt tù, người được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú.
Trong phạm vi bài viết này tác giả chỉ đề cập đến thẩm quyền của Toà án trong trường hợp người được hoãn chấp hành án phạt tù thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi đơn vị hành chính cấp huyện trong cùng đơn vị hành chính cấp tỉnh hoặc thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Về thủ tục giải quyết thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi đơn vị hành chính cấp huyện trong cùng đơn vị hành chính cấp tỉnh của người chấp hành án được quy định tại Điều 7 của Thông tư số 64/2019/TT-BCA; giải quyết thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi đơn vị hành chính cấp tỉnh của người chấp hành án được quy định tại Điều 8 của Thông tư số 64/2019/TT-BCA. Trong đó quy định rõ trình tự, thủ tục, thời hạn, thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết việc thay đổi nơi cư trú cho người chấp hành án của Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi đi, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi đến, Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an. Đồng thời quy định trách nhiệm của Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi đi và Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi đến về trách nhiệm thông báo về việc người chấp hành án thay đổi nơi cư trú cho Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tại Điều 9 của Thông tư số 64/2019/TT-BCA, cụ thể:
Điều 9. Thông báo về việc người chấp hành án thay đổi nơi cư trú
1. Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi đi thông báo cho Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Tòa án đã ra quyết định thi hành án, quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện về việc người chấp hành án thay đổi nơi cư trú.
2. Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi đến thông báo cho Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp về việc tiếp nhận, quản lý, giám sát, giáo dục đối với người chấp hành án thay đổi nơi cư trú.
Việc thực hiện thi hành án khi người chấp hành án được thay đổi nơi cư trú được quy định tại Điều 10 của Thông tư số 64/2019/TT-BCA:
Điều 10. Thực hiện thi hành án trong trường hợp người chấp hành án thay đổi nơi cư trú
1. Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi đến tổ chức thực hiện thi hành bản án, quyết định của Tòa án đối với người chấp hành án; hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện tiếp nhận, quản lý, giám sát, giáo dục người chấp hành án chuyển đến cư trú theo quy định của Luật Thi hành án hình sự và của Bộ Công an.
2. Công an cấp xã nơi đến có trách nhiệm tham mưu với Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc tiếp nhận hồ sơ quản lý, giám sát, giáo dục người chấp hành án do cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi đến bàn giao và thực hiện quản lý, giám sát, giáo dục người chấp hành án theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.
Như vậy, Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi đi thông báo cho Toà án nhân dân đã ra quyết định thi hành án, Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi đến thông báo cho Toà án nhân dân nơi ngươi chấp hành án đến cư trú. Tuy nhiên, Thông tư số 64/2019/TT-BCA chỉ quy định về thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết việc thay đổi nơi cư trú của người chấp hành án đối với Cơ quan thi hành án hình sự, Uỷ ban nhân dân cấp xã còn thẩm quyền của Toà án trong trường hợp người được hoãn chấp hành án phạt tù đã thay đổi nơi cư trú hết thời hạn hoãn chấp hành án, tiếp tục xin hoãn chấp hành án hoặc người được hoãn chấp hành án phạt tù phạm tội mới trong thời gian được hoãn chấp hành án thì Toà án nhân dân nào có thẩm quyền giải quyết thì chưa có văn bản pháp luật nào quy định, kể cả Luật thi hành án hình sự hiện hành cũng chưa quy định vấn đề này.
- Nếu Toà án nhân dân nơi người được hoãn chấp hành án đang cư trú (Toà án nơi đến) ra Thông báo thì không đúng quy định của Luật thi hành án hình sự vì đó không phải là Toà án đã ra quyết định thi hành án, Quyết định hoãn chấp hành án phạt tù, không có hồ sơ thi hành án đối với người chấp hành án nên không có thẩm quyền giải quyết khi hết thời hạn hoãn chấp hành án hoặc khi người được hoãn chấp hành án phạm tội mới.
- Nếu là Toà án nhân dân đã ra quyết định thi hành án, quyết định hoãn chấp hành án phạt tù (Toà án nơi đi) ra Thông báo thì không đúng thẩm quyền về mặt lãnh thổ. Vì Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định “Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án” (Khoản 1 Điều 363), có thể hiểu là trường hợp người chấp hành án bị phạt tù đang tại ngoại, hoặc được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ cư trú trên địa bàn hành chính khác thì Toà án đã xét xử sơ thẩm phải uỷ thác thi hành án cho Toà án nơi người chấp hành án đang cư trú để đảm bảo thẩm quyền thi hành án về mặt địa giới hành chính.
Bên cạnh đó, áp dụng tinh thần của Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ năm “Thi hành bản án và quyết định của Toà án” của Bộ luật tố tụng hình sự tại điểm c tiểu mục 2.1 mục 2 Phần I quy định:
“c) Việc ủy thác cho Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án chỉ được thực hiện khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:
c.1) Sau khi Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án ra quyết định thi hành án và đã gửi cho cơ quan Công an cùng cấp để thi hành, nhưng cơ quan Công an cùng cấp thông báo bằng văn bản cho Tòa án biết là người bị kết án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ thể;
c.2) Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án có căn cứ về việc người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác”.
Như vậy, Nghị quyết số 02/2007 và Bộ luật tố tụng hình sự đều không quy định trường hợp uỷ thác thi hành án khi người được hoãn chấp hành án thay đổi nơi cư trú. Vì người được hoãn chấp hành án có nghĩa là họ đã có quyết định thi hành án, quyết định hoãn chấp hành án phạt tù của Toà án nhân dân có thẩm quyền nên không thể uỷ thác thi hành án trong trường hợp này.
Vậy vấn đề như đã nêu ở trên là trường hợp người được hoãn chấp hành án đã thay đổi nơi cư trú mà hết thời hạn hoãn chấp hành án, hoặc họ có đơn xin tiếp tục hoãn chấp hành án, hoặc họ phạm tội trong thời gian được hoãn chấp hành án thì Toà án nào có thẩm quyền ra Thông báo hết thời hạn hoãn chấp hành án phạt tù, giải quyết việc xin hoãn chấp hành án hoặc ra Thông báo huỷ quyết định hoãn chấp hành án. Trong trường hợp này Toà án đã ra quyết định thi hành án, quyết định hoãn chấp hành án phạt tù có thể ra quyết định huỷ quyết định thi hành án, quyết định huỷ quyết định hoãn chấp hành án phạt tù để uỷ thác cho Toà án nhân dân nơi người chấp hành án đến cư trú ra quyết định thi hành án đối với người chấp hành án không? Nếu có thể uỷ thác thì uỷ thác vào thời gian nào, khi người chấp hành án được thay đổi nơi cư trú hay khi sắp hết thời hạn hoãn chấp hành án phạt tù? Vướng mắc nêu trên hiện nay chưa có văn bản pháp luật thi hành án hình sự nào quy định, gây lúng túng cho Toà án nhân dân trong công tác thi hành án hình sự.
Do đó, cần kiến nghị Toà án nhân dân tối cao có văn bản quy định bổ sung về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong trường hợp người được hoãn chấp hành án phạt tù thay đổi nơi cư trú.
Trên đây ý kiến trao đổi vướng mắc về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong trường hợp người được hoãn chấp hành án phạt tù thay đổi nơi cư trú, rất mong các đồng nghiệp và các bạn đọc đóng góp ý kiến.
Phan Phụng – Thiên Lý
TAND huyện Cư M’gar
Các tin khác
- VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC XỬ LÝ VẬT CHỨNG LÀ TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
- VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC ÁP DỤNG ĐIỀU 74 LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
- BÀI VIẾT: Nâng cao việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường của cán bộ, công chức Tòa án hai cấp tỉnh Đắk Lắk.
- Trao đổi quan điểm bài viết Trần Văn D và đồng phạm, phạm tội gì.
- Trần Văn D và đồng bọn phạm tội gì?