Một số vấn đề về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại theo Bộ luật hình sự năm 2015

Cập nhật lúc: 16:01 24/04/2017

Trách nhiệm hình sự của pháp nhân là một vấn đề mới trong khoa học pháp lý hình sự của nước ta, ngày 27/11/2015, các đại biểu Quốc hội làm việc tại hội trường, biểu quyết thông qua dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) với 84,01% đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi). Việc hiểu rõ các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong BLHS năm 2015 có ý nghĩa lớn về mặt nhận thức và đưa ra các giải pháp thực thi hiệu quả trong thực tiễn.

1. Sự cần thiết quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong bộ luật hình sự năm 2015

Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 lần đầu tiên quy định chế định trách nhiệm hình sự (TNHS) của pháp nhân tại Chương XI, gồm 16 điều (từ điều 74 - 89) và trong một số điều khoản cụ thể khác của Bộ luật (các điều 2, 3, 8, 33, 46). Đây là điểm đổi mới nổi bật, có tính đột phá trong chính sách hình sự, thay đổi nhận thức truyền thống về vấn đề tội phạm và hình phạt, khắc phục những bất cập, hạn chế trong xử lý các vi phạm pháp luật của pháp nhân, nhất là những vi phạm trong các lĩnh vực kinh tế và môi trường, bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại do các vi phạm của pháp nhân gây ra.

Lý do bổ sung chế định TNHS của pháp nhân trong BLHS:

Thứ nhất, giải quyết mặt trái của kinh tế thị trường như các hành vi vi phạm quy định về độc quyền, buôn lậu, xâm phạm sở hữu trí tuệ, gian lận thương mại, gây ô nhiễm môi trường..., gây những hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội.

Thứ hai, các biện pháp hình sự xử lý pháp nhân có nhiều ưu điểm so với các biện pháp hành chính, dân sự, được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng mang tính chuyên nghiệp cao, với trình tự, thủ tục tư pháp chặt chẽ, minh bạch, sử dụng các chế tài mạnh mẽ, các biện pháp nghiệp vụ chuyên sâu mà trong xử lý hành chính, dân sự không có khi chứng minh các hành vi vi phạm và xác minh mức độ thiệt hại.

Thứ ba, chế tài hình sự đủ nghiêm để ngăn chặn, xử lý tình hình vi phạm pháp luật ngày càng gia tăng, phức tạp của pháp nhân, đảm bảo việc khắc phục thiệt hại, quyền của người bị hại do pháp nhân gây ra, không để lọt tội phạm.

Thứ tư, qua thực tiễn xử lý các vụ việc điển hình trong thời gian qua cho thấy những khó khăn, vướng mắc khi xử lý vi phạm pháp luật của pháp nhân bằng biện pháp hành chính và dân sự.

Ví dụ: Theo Luật tố tụng dân sự, cho đến nay vẫn chưa xác định được ai là người phải chịu trách nhiệm khởi kiện yêu cầu công ty Vedan bồi thường thiệt hại, nếu khởi kiện thì những người nông dân không đủ khả năng chứng minh được thiệt hại gây ra, dự trù án phí dân sự không phải nhỏ,...

Thứ năm, cơ chế xử phạt vi phạm hành chính và bồi thường thiệt hại áp dụng đối với pháp nhân thương mại vi phạm tỏ ra bất cập, kém hiệu quả. Mặc dù xử phạt vi phạm hành chính có ưu điểm là nhanh, kịp thời nhưng lại thiếu tính chuyên nghiệp, minh bạch và không giải quyết được triệt để quyền lợi của người dân bị thiệt hại mà họ phải tự chứng minh thiệt hại để yêu cầu bồi thường. Hơn nữa, cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính không có đội ngũ cán bộ chuyên trách để điều tra, chứng minh vi phạm cũng như hậu quả của vi phạm.

Thứ sáu, cá nhân bị truy cứu TNHS thường khó có đủ năng lực tài chính để bồi thường những thiệt hại lớn hoặc đặc biệt lớn, nếu chủ thể phạm tội là pháp nhân thì có khả năng tốt hơn trong việc thi hành các khoản bồi thường thiệt hại, sửa chữa, khắc phục hậu quả gây ra

Thứ bảy, Việt Nam đã ký kết Công ước Liên Hiệp Quốc về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia (Công ước TOC).

Điều 10 Công ước TOC quy định:

1. Mỗi quốc gia thành viên sẽ ban hành những biện pháp cần thiết phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia để xác định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong việc tham gia vào các tội phạm nghiêm trọng liên quan đến nhóm tội phạm có tổ chức và trong việc thực hiện những hành vi phạm tội theo quy định tại các điều 5, 6, 8 và 23 của Công ước này;

2. Với điều kiện không trái với các nguyên tắc pháp luật của quốc gia thành viên, pháp nhân có thể phải chịu trách nhiệm hình sự, dân sự hoặc hành chính;

3. Trách nhiệm pháp lý của pháp nhân không ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của những thể nhân đã thực hiện hành vi phạm tội;

4. Đặc biệt là mỗi quốc gia thành viên phải đảm bảo áp dụng đối với những pháp nhân bị quy kết trách nhiệm pháp lý theo quy định tại điều này những biện pháp chế tài hiệu quả, tương ứng với tính chất và mức độ của tội phạm và đủ sức răn đe, có thể là chế tài hình sự, chế tài phi hình sự hoặc phạt tiền”.

2. Khái niệm trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

Để nắm rõ những quy định mới trong BLHS năm 2015 về TNHS đối với pháp nhân, chúng ta cần hiểu rõ về khái niệm của TNHS đối với pháp nhân.

TNHS của pháp nhân trong khoa học pháp luật hình sự có thể hiểu là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân do luật hình sự quy định.

3. Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

Theo quy định Điều 75 BLHS năm 2015, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu TNHS khi có đủ 4 điều kiện:

Thứ nhất, hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;

Pháp nhân thương mại tham gia vào quan hệ pháp luật là chủ thể bình đẳng, độc lập với các chủ thể khác cho nên pháp nhân thương mại phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Hai dạng năng lực của pháp nhân thương mại phát sinh đồng thời và thường là kể từ thời điểm đăng ký hoạt động được cấp phép hoạt động, với các chức năng, nhiệm vụ được đăng ký;

Mọi hoạt động của pháp nhân thương mại được tiến hành thông qua hành vi của những cá nhân - người đại diện hợp pháp của pháp nhân. Hành vi của những cá nhân này không tạo ra quyền và nghĩa vụ cho họ, mà nhân danh pháp nhân, tạo ra các quyền và nghĩa vụ cho pháp nhân thương mại.

Pháp nhân là thực thể trìu tượng nên hoạt động của pháp nhân thương mại phải thông qua hoạt động của những con người cụ thể. Chỉ khi nào những hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại thì mới làm phát sinh điều kiện truy cứu TNHS của pháp nhân đó.

Người có thẩm quyền thực hiện hoạt động nhân danh pháp nhân thương mại có thể là người đại diện theo pháp luật, người quản lý, điều hành và những người được ủy quyền, phân công nhiệm vụ tại pháp nhân thương mại.

Thứ hai, hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;

Theo quy định này, để truy cứu TNHS của pháp nhân thương mại thì hành vi phạm tội phải được phạm tội vì lợi ích của pháp nhân đó.

Ví dụ: Không thực hiện đúng quy trình xử lý chất thải nhằm giảm chi phí cho pháp nhân là mang lại lợi ích cho pháp nhân thương mại.

Trường hợp hành vi được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại nhưng không mang lại lợi ích cho pháp nhân thương mại thì cũng không có cơ sở để truy cứu TNHS pháp nhân.

Ví dụ: Trường hợp không thực hiện đúng quy trình xử lý chất thải theo quy định nhưng là do một nhóm người trực tiếp thực thi cố tình làm sai quy trình  nhằm chiếm đoạt chi phí xử lý chất thải của công ty thì không có cơ sở xử lý TNHS của pháp nhân.

Thứ ba, hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;

Có thể thông qua những hình thức khác nhau như: Nghị quyết Hội đồng quản trị (trong công ty cổ phần), quyết định của Giám đốc, Tổng giám đốc hay những người được ủy quyền. Ở đây, quy định của BLHS bao gồm cả sự chấp thuận của pháp nhân thông qua những người có thẩm quyền cũng được coi là điều kiện để xem xét truy cứu TNHS của pháp nhân thương mại.

Ví dụ: Ý kiến đồng ý của Giám đốc – người đại diện theo pháp luật của công ty trong bản đề xuất mua hàng hóa do các phòng ban của pháp nhân đề nghị (mà hàng hóa thuộc danh mục cấm của nhà nước, công ty không được phép mua bán) được coi là đã có sự chấp thuận của pháp nhân.

Thứ tư, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của BLHS năm 2015.

Thời hiệu truy cứu tương tự như đối với cá nhân phạm tội: 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Khoản 2 Điều 75 BLHS năm 2015: “2. Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân”.

 Cùng với việc truy cứu TNHS của pháp nhân thương mại về một tội phạm cụ thể thì những cá nhân có liên quan đến việc thực hiện tội phạm của pháp nhân cũng có thể phải chịu TNHS về tội phạm đó.

Quy định này không trái với nguyên tắc “không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” (khoản 3 Điều 31 Hiến pháp năm 2013). Vì pháp nhân với những đặc tính của mình đã trở thành một thực thể pháp lý có những quyền, nghĩa vụ độc lập với những cá nhân tham gia với tư cách là thành viên. Do vậy, pháp nhân và cá nhân khi thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật hình sự và bị kết án thì sẽ được hiểu là 2 chủ thể khác nhau. Quy định này có thể phòng ngừa những trường hợp cá nhân cố tình thực hiện hành vi phạm tội núp dưới danh nghĩa pháp nhân.

4. Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

Xác định phạm vi các tội danh mà pháp nhân phạm tội phải chịu TNHS chỉ thuộc các nhóm Tội phạm kinh tế và Tội phạm về môi trường, đây là những tội danh mà pháp nhân thường hay vi phạm (tính phổ biến), có mức độ nguy hiểm nhất định và dễ chứng minh trên thực tế. Trên tinh thần đó, Điều 76 của BLHS năm 2015 đã quy định 31 tội danh, trong đó, 22 tội thuộc Chương XVIII. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và 09 tội thuộc Chương XIX. Các tội phạm về môi trường, nếu phạm một trong các tội này, thì pháp nhân phải chịu TNHS. Cụ thể:
- Tại Chương XVIII. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, BLHS năm 2015 quy định 22 tội pháp nhân phải chịu TNHS, gồm các điều luật quy định tại Khoản 1 Điều 76 BLHS năm 2015:“1. Điều 188 (tội buôn lậu); Điều 189 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191 (tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm); Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm); Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 195 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 196 (tội đầu cơ); Điều 200 (tội trốn thuế); Điều 203 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ); Điều 209 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán); Điều 210 (tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán); Điều 211 (tội thao túng thị trường chứng khoán); Điều 213 (tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm); Điều 216 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động); Điều 217 (tội vi phạm quy định về cạnh tranh); Điều 225 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 226 (tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp); Điều 227 (tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên); Điều 232 (tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng); Điều 234 (Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã);”
- Tại Chương XIX. Các tội phạm về môi trường, BLHS năm 2015 quy định 09 tội mà pháp nhân phải chịu TNHS, gồm các điều luật quy định tại Khoản 2 Điều 76 BLHS năm 2015 quy định: “2. Điều 235 (tội gây ô nhiễm môi trường); Điều 237 (tội vi phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường); Điều 238 (tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông); Điều 239 (tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam); Điều 242 (tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản); Điều 243 (tội huỷ hoại rừng); Điều 244 (tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm); Điều 245 (tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên); Điều 246 (tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại)”.
Điểm chung trong các điều luật quy định tội danh cho pháp nhân (31 điều luật) là quy định song song giữa TNHS của cá nhân con người phạm tội với TNHS của pháp nhân.
Ví dụ: Điều 243 – Tội hủy hoại rừng: Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 Điều 243 quy định TNHS của cá nhân con người phạm tội khi có một trong các hành vi vi phạm mà BLHS quy định;
Còn khoản 5 Điều 243 quy định TNHS của pháp nhân, dựa trên những dấu hiệu pháp lý hành vi và hậu quả được quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 Điều 243 BLHS năm 2015.

5. Hình phạt áp dụng với pháp nhân thương mại phạm tội

Điều 33 BLHS năm 2015 quy định Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội bao gồm:

+ Hình phạt chính: Phạt tiền; Đình chỉ hoạt động có thời hạn; Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.

+ Hình phạt bổ sung: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; Cấm huy động vốn; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.

Lưu ý: Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.

5.1. Phạt tiền

Cũng giống như hình phạt tiền áp dụng đối với cá nhân phạm tội, hình phạt tiền áp dụng đối với pháp nhân thương mại là việc tước của pháp nhân thương mại một khoản tiền nhất định sung công quỹ nhà nước. Việc áp dụng hình phạt tiền cũng nhằm đảm bảo mục đích trừng trị và giáo dục pháp nhân thương mại, đồng thời ngăn ngừa họ phạm tội mới.

Phạt tiền được áp dụng đối với pháp nhân thương mại có thể là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung.

5.2. Đình chỉ hoạt động có thời hạn

Theo quy định tại Điều 78, đình chỉ hoạt động có thời hạn là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế.

Thời hạn đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 03 năm.

5.3. Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn

Theo quy định của điều 79, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn là chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra.

5.4. Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định

Theo quy định tại Điều 80, Tòa án có thể áp dụng hình phạt cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định khi xét thấy nếu để pháp nhân thương mại bị kết án tiếp tục kinh doanh hoặc hoạt động trong lĩnh vực đó, thì có thể gây nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người hoặc cho xã hội.

Ví dụ: Công ty Trách nhiệm hữu hạn X đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng; đầu tư kinh doanh bất động sản; sản xuất công nghiệp… Trong quá trình hoạt động, công ty X đã nhập khẩu hàng hóa kém chất lượng với giá rẻ và in dán nhãn mác của các thương hiệu lớn và bán ra thị trường thu lợi bất chính. Trong trường hợp này, theo quy định của Điều 80, ngoài hình phạt chính, Tòa án có thể áp dụng hình phạt bổ sung là cấm kinh doanh từ 1- 3 năm đối với hoạt động xuất nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng nhằm ngăn chặn khả năng tiếp tục vi phạm của công ty X.

5.5. Cấm huy động vốn

Điều 81 quy định hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội là cấm huy động vốn. Tòa án sẽ áp dụng hình phạt này khi xét thấy nếu để pháp nhân thương mại bị kết án huy động vốn thì có nguy cơ tiếp tục phạm tội.

Các hình thức cấm huy động vốn bao gồm:

- Cấm vay vốn ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc các quỹ đầu tư;

Vay vốn ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc các quỹ đầu tư là một phương thức huy động vốn phổ biến của các pháp nhân thương mại để đáp ứng các nhu cầu tài chính trong hoạt động đầu tư, kinh doanh. Trong trường hợp có căn cứ cho rằng việc vay vốn ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc các quỹ đầu tư có nguy cơ giúp pháp nhân thương mại tiếp tục phạm tội thì Tòa án có thể tuyên áp dụng hình phạt bổ sung này trong thời gian từ 01 đến 03 năm.

- Cấm phát hành, chào bán chứng khoán;

Phát hành, chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán rộng rãi cho các nhà đầu tư ngoài tổ chức phát hành để huy động vốn từ các nhà đầu tư là các tổ chức và cá nhân. Việc phát hành, chào bán chứng khoán phải tuân thủ các quy định của pháp luật.

Đây là hình thức huy động vốn chủ yếu của các pháp nhân thương mại, nhất là pháp nhân thương mại hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần. Việc áp dụng hình phạt cấm phát hành chứng khoán đối với pháp nhân thương mại phạm tội nhằm đảm bảo tránh rủi ro cho các nhà đầu tư.

- Cấm huy động vốn khách hàng;

Pháp nhân thương mại có quyền huy động vốn từ khách hàng để thực hiện các hoạt động kinh doanh, thương mại nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu tài chính của pháp nhân trong việc huy động nguồn vốn từ các khách hàng của mình trên cơ sở các bên đều có lợi trong việc góp vốn thực hiện hoạt động kinh doanh.

Trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội, Tòa án có thể xem xét áp dụng hình phạt bổ sung này nếu có căn cứ cho rằng việc huy động vốn của khách hàng có thể mang tới rủi ro đối với người góp vốn. Thời gian cấm huy động vốn góp của khách hàng có thể từ 01 đến 03 năm.

- Cấm liên doanh, liên kết trong và ngoài nước;

Liên doanh, liên kết là hoạt động bình thường của pháp nhân thương mại nhằm bổ sung, hỗ trợ nhau và cùng hưởng lợi trong việc thực hiện các hoạt động kinh doanh, thương mại. Việc liên doanh, liên kết giữa các pháp nhân thương mại sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên thông qua hợp đồng liên doanh, liên kết.

Trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội, Tòa án có thể cấm việc liên doanh, liên kết nhằm đảm bảo hạn chế rủi ro cho đối tác hoặc ngăn chặn việc lợi dụng liên doanh liên kết để trốn tránh trách nhiệm.

- Cấm hình thành quỹ tín thác bất động sản;

Quỹ tín thác bất động sản hay còn gọi là Reit (Real estate investment trust) là hình thức góp vốn cho một hay nhiều dự án bất động sản từ những cá nhân, tổ chức khác, thông qua việc phát hành các chứng từ có giá như cổ phiếu, chứng chỉ quỹ. Đây được xem là kênh huy động vốn hữu hiệu của pháp nhân thương mại hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản nhằm tận dụng nguồn vốn của các nhà đầu tư.

Trong trường hợp xét thấy việc hình thành các quỹ tín thác bất động sản của pháp nhân thương mại có nguy cơ rủi ro cho các nhà đầu tư thì cơ quan Tòa án có thể áp dụng hình phạt bổ sung này với thời hạn từ 01 đến 03 năm.

Tòa án quyết định áp dụng một hoặc một số hình thức cấm huy động vốn. Thời hạn cấm huy động vốn là từ 01 năm đến 03 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

6. Biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Theo nội dung Điều 82, Tòa án có thể quyết định áp dụng các biện tư pháp sau đây đối với pháp nhân thương mại phạm tội:

- Các biện pháp tư pháp quy định tại Điều 47 và Điều 48 của BLHS:

+ Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm để sung vào ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy, bao gồm:

i) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; ii) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội; iii) Vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành. Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp.

Trường hợp vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu.

+ Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi.

Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.

- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;

- Buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.

Tòa án có thể quyết định áp dụng biện pháp tư pháp buộc pháp nhân thương mại phạm tội phải khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do hành vi phạm tội của mình gây ra.

 Căn cứ vào từng trường hợp phạm tội cụ thể, Tòa án có thể quyết định buộc pháp nhân thương mại phạm tội phải thực hiện một hoặc một số biện pháp sau đây nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả của tội phạm:

- Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép;

- Buộc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh;

- Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện được đưa vào lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhập khẩu trái với quy định của pháp luật hoặc được tạm nhập, tái xuất nhưng không tái xuất theo đúng quy định của pháp luật; hàng hóa nhập khẩu, quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng hóa giả mạo quyền sở hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ yếu tố vi phạm;

- Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại hoặc tang vật khác thuộc đối tượng bị tiêu hủy theo quy định của pháp luật;

- Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm;

- Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa vi phạm đang lưu thông trên thị trường.

7. Quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS áp dụng đối với pháp nhân thương mại.

Lưu ý: Việc quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội cũng cần phải tính đến ảnh hưởng của hình phạt đối với việc làm của người lao động, nguồn thu của ngân sách nhà nước và cả những yếu tố liên quan đến môi trường đầu tư.

- Các trường hợp quyết định hình phạt cụ thể                                               

+ Quyết định hình phạt trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm nhiều tội.

Theo quy định của điều luật, trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm nhiều tội thì việc quyết định hình phạt sẽ được thực hiện như sau:

-  Đối với hình phạt chính:

+ Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;

+ Hình phạt đã tuyên là đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với từng lĩnh vực cụ thể thì không tổng hợp;

+ Hình phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác;

- Đối với hình phạt bổ sung:

+ Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn quy định đối với hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền được cộng lại thành hình phạt chung;

+ Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì pháp nhân thương mại bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.

Lưu ý: chỉ đối với hình phạt đã tuyên là đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với từng lĩnh vực cụ thể thì không tổng hợp. Có nghĩa là đối với những lĩnh vực khác nhau khi có hình phạt tạm đình chỉ hoạt động có thời hạn thì không tổng hợp mà áp dụng riêng lẻ từng thời hạn cho mỗi lĩnh vực mà pháp nhân thương mại đã thực hiện hành vi tội phạm.

- Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án:

- Trường hợp pháp nhân thương mại đang chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 86. Theo đó, hình phạt chính và hình phạt bổ sung được tổng hợp với bản án đang chấp hành nếu cùng hình phạt.

Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước về đình chỉ hoạt động có thời hạn, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

- Khi xét xử một pháp nhân thương mại đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 86.

- Trong trường hợp một pháp nhân thương mại phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Quy định này nhằm đảm bảo khắc phục những bất cập trong quá trình tổng hợp hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội trong các trường hợp Tòa án hoặc hội đồng xét xử trước đó đã không tiến hành tổng hợp hình phạt theo quy định. Tuy nhiên, trong trường hợp này cũng cần phải được hướng dẫn để được hiểu thống nhất là Chánh án Tòa án có thẩm quyền tổng hợp hình phạt đối với pháp nhân thương mại là Tòa án nào.

8. Miễn hình phạt và xóa án tích đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Về miễn hình phạt: Trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội có thể được miễn hình phạt khi đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra vì việc áp dụng các hình phạt đối với pháp nhân là nhằm răn đe, giáo dục chứ không nhằm triệt tiêu hoạt động của pháp nhân, trên tinh thần đó, nhằm giúp pháp nhân sửa chữa sai lầm, tiếp tục hoạt động để tạo công việc làm cho xã hội, đóng góp ngân sách thông qua nộp thuế.

Tuy nhiên, với quy định của Điều 88, việc miễn hình phạt không là đương nhiên mà là trên cơ sở xem xét:

 + Khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.

+ Có thể phải căn cứ vào những yếu tố khác như tính chất mức độ phạm tội, ảnh hưởng của hành vi phạm tội đối với dư luận xã hội, đối với trật tự quản lý của nhà nước và môi trường đầu tư…

Về xóa án tích: Pháp nhân thương mại bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu trong thời hạn 02 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà pháp nhân thương mại không thực hiện hành vi phạm tội mới.

Việc quy định xóa án tích đối với pháp nhân theo hướng này không buộc pháp nhân phải tiến hành thủ tục đề nghị Tòa án cấp giấy chứng nhận xóa án tích và có phạm vi hẹp hơn so với xóa án tích cho cá nhân phạm tội.

9. Một số vấn đề cần đặt ra
Quy định của BLHS năm 2015 về việc áp dụng TNHS đối với pháp nhân thương mại cũng còn một số điều cần bàn thêm.
Thứ nhất: BLHS năm 2015 chỉ quy định TNHS đối với 2 nhóm tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế và tội phạm về môi trường, còn đối với các nhóm tội phạm khác thì chưa đặt ra như: Nhóm các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (tội tài trợ khủng bố hay tội rửa tiền…); nhóm các tội phạm về chức vụ (tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ…); tội phạm mua bán người… Thực tế cho thấy, những tội phạm này hoàn toàn có thể được thực hiện bởi các pháp nhân. Điều này cũng thể hiện sự thiếu tương thích của BLHS với yêu cầu của các công ước quốc tế về phòng chống tội phạm mà Việt Nam là thành viên như: Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Công ước chống tham nhũng, Công ước chống tài trợ khủng bố và 40 khuyến nghị của Cơ quan đặc nhiệm tài chính (FATF) về phòng chống rửa tiền…
Như vậy, trong giai đoạn tiếp theo, có thể nghiên cứu cân nhắc mở rộng phạm vi tội phạm mà pháp nhân thương mại có thể phải chịu TNHS.
Thứ hai: Trong thực tiễn sẽ rất khó khăn để chứng minh đầy đủ các điều kiện quy định Điều 75 đưa ra 4 điều kiện để có thể truy cứu TNHS đối với pháp nhân, cụ thể:
a. hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân;
 b) hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân;
c) hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân;
d) chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Theo đó, 4 điều kiện này phải có tính độc lập với nhau.
Ở đây có thể có sự quy định chưa rõ ràng giữa các điều kiện để pháp nhân thương mại có thể phải chịu TNHS về các hành vi đó, nên có thể quy định điều kiện chịu TNHS của pháp nhân thương mại theo dạng hành vi cụ thể với 3 trường hợp:
- Trường hợp thứ nhất: Pháp nhân có thể phải chịu TNHS về hành vi không được thực hiện quy định trực tiếp cho pháp nhân.
Ví dụ: Doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ đóng phí BVMT. Đây là nghĩa vụ được quy định trực tiếp cho doanh nghiệp. Khi không thực hiện nghĩa vụ này ở mức độ nghiêm trọng (bị coi là tội phạm), doanh nghiệp có thể phải chịu TNHS. Đối với dạng hành vi không thực hiện nghĩa vụ này, luật không đòi hỏi thêm điều kiện để xác định TNHS. Như vậy, các điều kiện a, b, c được quy định tại khoản 1 Điều 75 BLHS năm 2015 không có ý nghĩa đối với việc xác định TNHS của pháp nhân trong trường hợp thứ nhất.
- Trường hợp thứ hai: Pháp nhân có thể phải chịu TNHS về hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh và vì lợi ích của chính nó.
Ví dụ: Doanh nghiệp A có thể phải chịu trách nhiệm về việc lãnh đạo doanh nghiệp đưa hối lộ cho quan chức để được giải quyết công việc của doanh nghiệp hoặc về việc công nhân phá rừng trái phép vì lợi ích của doanh nghiệp theo chỉ đạo của lãnh đạo doanh nghiệp. Trong trường hợp này, vấn đề TNHS của pháp nhân mới cần hai điều kiện là hành vi phạm tội phải nhân danh và vì lợi ích của pháp nhân. Như vậy, chỉ 3 điều kiện được quy định tại điểm (a), (c) và (d) có ý nghĩa xác định TNHS của pháp nhân trong trường hợp thứ hai.
- Trường hợp thứ ba: Pháp nhân phải chịu TNHS trong trường hợp người của pháp nhân phạm tội khi thực hiện công việc được pháp nhân giao và việc phạm tội này có phần lỗi của pháp nhân.
Ví dụ: Trong khi thực hiện công việc được doanh nghiệp giao, người lao động đã gây hỏa hoạn dẫn đến chết người, cháy tài sản của người khác và sự việc xảy ra có phần lỗi của doanh nghiệp như không tập huấn, không nhắc nhở về phòng cháy cho người lao động, không cung cấp các điều kiện về phòng cháy cho họ theo đúng quy định về an toàn lao động… Việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân trong trường hợp này là có cơ sở và cần thiết để răn đe, buộc pháp nhân phải có biện pháp phòng ngừa sự tái diễn hành vi phạm tội tương tự trong tương lai. Như vậy, các điều kiện a, b, c được quy định tại Khoản 1 Điều 75 hoàn toàn không có ý nghĩa đối với việc xác định TNHS của pháp nhân trong trường hợp thứ ba.

Các cách xác định nêu trên cũng có những điểm hợp lý và có thể phù hợp cho việc truy cứu TNHS của pháp nhân và phù hợp với khoa học luật hình sự Việt Nam hơn so với quy định tại Điều 75 BLHS năm 2015.

TÀI LIỆU THAM KHẢO                    

1. Bộ Tư pháp, Tài liệu Hội nghị quán triệt, phổ biến Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 109/2015/QH13;

2. Cao Thị Oanh, Nghiên cứu so sánh cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức, Đề tài Cấp Bộ, Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Hà Nội,  2011, Tr34;

3. Cao Thị Oanh, Nghiên cứu so sánh cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức, Đề tài Cấp Bộ, Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Hà Nội,  2011, Tr34;

4. Đào Trí Úc, Nhận thức đúng đắn hơn nữa các nguyên tắc về trách nhiệm cá nhân và lỗi trong việc xử lý trách nhiệm hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9, năm 1999, tr75;

5.  Nguyễn Ngọc Hòa, Trách nhiệm hình sự của chủ thể là tổ chức và vấn đề sửa đổi BLHS Việt Nam, Tạp chí Luật học (ĐH Luật Hà Nội), số 12/2014;

6. Phạm Hồng Hải, Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không?, Tạp chí Luật học, số 6/1999, Tr16;

7. Trịnh Quốc Toản, Vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 1,năm 2013, Tr60-73;

8. Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp), Dự án Điều tra cơ bản "Thực trạng thi hành Bộ luật Hình sự năm 1999 nhằm sửa đổi toàn diện Bộ luật Hình sự năm 1999 trong thời gian tới”, Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Văn Hiển, Hà Nội, 2015;

Hoàng Văn Vân