Tòa án có thụ lý lại vụ án khi nguyên đơn nộp lại đơn khởi kiện trong thời hạn quyết định đình chỉ chưa có hiệu lực pháp luật.

Cập nhật lúc: 07:00 29/10/2025

Trao đổi nghiệp vụ: Tòa án có được đình chỉ vụ án vì lý do nguyên đơn bà A vắng mặt trong phiên tòa lần 2. Tòa án có thụ lý lại vụ án khi nguyên đơn bà A nộp lại đơn khởi kiện trong thời hạn quyết định đình chỉ chưa có hiệu lực pháp luật.

Phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại Tòa án nhân dân huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên (cũ)

Tình huống đặt ra: Trong vụ án dân sự tranh chấp vay tài sản giữa nguyên đơn bà A và bị đơn ông A, Tòa án có ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và biện pháp phong tỏa tài sản của ông B. Tại phiên tòa lần 1, ông B vắng mặt không có lý do nên Tòa án phải hoãn phiên tòa. Phiên tòa lần 2, bà A vắng mặt dù đã được triệu tập hợp lệ. Do đó, Tòa án đã ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại phiên tòa do nguyên đơn được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và biện pháp phong tỏa tài sản.

Sau khi nhận Quyết định đình chỉ vụ án, bà A có nộp lại đơn khởi kiện đối với ông B (lúc này quyết định đình chỉ chưa có hiệu lực) về việc trả lại số tiền đã vay như vụ án trước kèm theo đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của ông B để tránh trường hợp ông B rút tiền trong tài khoản và sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà A. Tòa án có thụ lý đơn khưởi kiện và yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của bà A không?

Vấn đề đặt ra trong trường hợp này: tại phiên tòa lần 1 bị đơn ông B vắng mặt nên Tòa án hoãn phiên tòa lần 1 thì tại phiên tòa lần 1 bà A có mặt hay không?

Trường hợp 1: bà A vắng mặt tại phiên tòa lần một, phiên tòa lần 2, bà A vắng mặt dù đã được triệu tập hợp lệ thì căn cứ Điều 235, điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án tại phiên tòa lý do nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ 02 lần nhưng vẫn vắng mặt và hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án là hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và biện pháp phong tỏa tài sản.

Trường hợp thứ 2: tại phiên tòa lần 1 bà A có mặt, nhưng tại phiên tòa lần 2 bà B vắng mặt không có lý do. Trường hợp này Hội đồng xét xử ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng Dân sự là chưa đúng vì bà A chưa vắng mặt 02 lần liên tiếp. Mặt khác, bà A có đơn khởi kiện lại ngay trong ngày Tòa án đình chỉ, có nghĩa lý do bà A vắng mặt có thể do trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử chưa xem xét lý do mà đình chỉ giải quyết vụ án là làm mất quyền lợi của bà A.

Quan điểm 1 : theo quy định tại Điều 191, 192 Bộ luật tố tụng Dân sự, trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận đơn, Chánh án phân công Thẩm phán xem xét đơn, trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận phân công, Thẩm phán xem xét tiến hành thủ tục thụ lý vụ án (lúc này là 08 ngày, tức Quyết định đình chỉ đã có hiệu lực) nên Tòa án thụ lý đơn khởi kiện của bà A căn cứ khoản 1 Điều 218 Bộ luật tố tụng dân sự, bà A có quyền khởi kiện lại vụ án.

Quan điểm thứ 2 : Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện cùng với Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều 192 BLTTDS không có quy định về trường hợp trả lại đơn khởi kiện lý do Quyết định đình chỉ vụ án chưa có hiệu lực pháp luật. Do đó để đảm bảo quyền lợi cho đương sự (hậu quả của quyết định đình chỉ là hủy bỏ Quyết định khẩn cấp tạm thời và biện pháp bảo đảm). Nếu đợi 07 ngày bà A mới có quyền nộp đơn khởi kiện lại, lúc này Quyết định đình chỉ có hiệu lực, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bị hủy bỏ thì bị đơn ông B có quyền rút tiền trong tài khoản ngay, trong khi Tòa thụ lý đơn khởi kiện kèm đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là trong vòng 48 giờ. Quyết định đình chỉ vụ án trên nếu không đúng sẽ gây thiệt hại cho nguyên đơn bà A.

Bà A nộp đơn khởi kiện lại vụ án đối với ông B nội dung khởi kiện tương tự vụ án trước thì trước tiên Tòa án phải giải thích cho bà A về việc Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án chưa có hiệu lực pháp luật và bà A có quyền kháng cáo quyết định trên trong vòng 07 ngày. Trường hợp bà A không có kháng cáo và không đồng ý rút đơn khởi kiện thì sau 7 ngày khi quyết định đình chỉ có hiệu lực pháp luật Tòa án xem xét thụ lý lại đơn khởi kiện của bà A theo thủ tục quy định tại Điều 191, 192 Bộ luật tố tụng Dân sự. Trường hợp bà A rút đơn khởi kiện và có đơn kháng cáo thì Tòa án làm thủ tục chuyển kháng cáo theo quy định Điều 283 Bộ luật tố tụng Dân sự để Tòa án cấp phúc thẩm xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Trên đây là quan điểm của tác giả về tình huống trên, rất mong góp ý phản hồi từ các đồng nghiệp.

Cao Thị Thu Hà, Thẩm phán bậc 1 Tòa án nhân nhân Khu vực 13 – Đắk Lắk

Nguyễn Thị Hà, Thư ký Tòa án nhân nhân Khu vực 13 – Đắk Lắk